trongdong
text logo

PHÁT HUY VAI TRÒ GIẢNG VIÊN TRẺ TRONG THỰC HIỆN PHONG TRÀO “BÌNH DÂN HỌC VỤ SỐ”, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY Ở CÁC HỌC VIỆN, NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

Tác giả bài viết: ThS. Nguyễn Văn Hanh, CN. Nguyễn Trọng Duy - Khoa Triết học Mác - Lênin, Học viện Chính trị - Bộ Quốc Phòng

Thứ ba - 07/10/2025 04:20
     Lấy cảm hứng từ phong trào “Bình dân học vụ” do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng năm 1945, phong trào “Bình dân học vụ số” do Tổng Bí thư Tô Lâm phát động mang sứ mệnh mới: phổ cập kỹ năng số, giúp người dân làm chủ công nghệ. Đây là bước cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đối với các học viện, nhà trường trong Quân đội, phong trào này có ý nghĩa chiến lược trong đổi mới giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng giảng dạy và xây dựng môi trường học tập thông minh, hiện đại, trong đó giảng viên trẻ là lực lượng xung kích, nòng cốt của chuyển đổi số và đổi mới sư phạm.
     1. Vai trò của giảng viên trẻ trong triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”
     Với tinh thần xung kích, sáng tạo và khả năng thích ứng nhanh với công nghệ, giảng viên trẻ là lực lượng nòng cốt trong việc triển khai phong trào “Bình dân học vụ số” tại các học viện, nhà trường Quân đội, họ vừa là chủ thể trực tiếp tham gia học tập, rèn luyện, nâng cao kỹ năng số, vừa là người truyền cảm hứng, hướng dẫn và phổ cập tri thức số cho đồng nghiệp, học viên.
     Trong bối cảnh Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quán triệt, triển khai Kế hoạch số 3760-KH/BCĐ ngày 23/4/2025 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Quân đội, với mục tiêu đến năm 2025: “100% học viên các học viện, nhà trường Quân đội được trang bị kiến thức, kỹ năng số để phục vụ học tập, nghiên cứu và sáng tạo, có kỹ năng an toàn trong học tập và tương tác xã hội trên môi trường số”, đội ngũ giảng viên trẻ đã thể hiện rõ vai trò tiên phong, tích cực đi đầu trong việc thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ của phong trào, đặc biệt là trong phổ cập kỹ năng số, ứng dụng nền tảng và dịch vụ số vào giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Đi đầu trong đổi mới tư duy, phương pháp giảng dạy gắn với chuyển đổi số, khai thác có hiệu quả các nền tảng số như qlms.bqp.vn, ứng dụng QiMe và các phần mềm thiết kế giảng dạy hiện đại để phát triển bài giảng e-learning, học liệu điện tử. Họ là “đại sứ số” trong nhà trường, góp phần đưa chuyển đổi số đi vào chiều sâu, hình thành văn hóa học tập suốt đời trong môi trường sư phạm quân sự.
     2. Thực trạng phát huy vai trò giảng viên trẻ ở các các học viện, nhà trường trong Quân đội, nhà trường trong Quân đội hiện nay
     Thực hiện chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, các học viện, nhà trường trong Quân đội đã tích cực xây dựng kế hoạch, thành lập tổ công tác và tổ chức triển khai phong trào “Bình dân học vụ số” một cách đồng bộ, thiết thực và phù hợp với đặc thù hoạt động đào tạo trong Quân đội. Nhiều đơn vị đã chủ động lồng ghép nội dung của phong trào vào kế hoạch năm học, kế hoạch chuyển đổi số và các hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên, học viên; đồng thời kết hợp linh hoạt giữa các hình thức học tập trực tiếp, trực tuyến, học qua nền tảng Bình dân học vụ số (QiMe; qlms.bqp.vn) và các ứng dụng hỗ trợ học tập, quản lý đào tạo.
     Trong quá trình thực hiện, đội ngũ giảng viên trẻ đã thể hiện tinh thần chủ động, sáng tạo, tích cực học tập, bồi dưỡng, rèn luyện kỹ năng số, ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin vào giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Nhiều nhà trường đã hình thành mô hình “phòng học thông minh”, “lớp học số”, “giảng viên số”, “tổ tư vấn kỹ năng số”, bước đầu tạo dựng môi trường sư phạm hiện đại, tương tác cao, khuyến khích tinh thần tự học, tự nghiên cứu, học tập suốt đời.
     Tuy vậy, thực tiễn cũng cho thấy việc phát huy vai trò giảng viên trẻ trong phong trào “Bình dân học vụ số” vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, trang thiết bị phục vụ dạy học số ở một số học viện, nhà trường còn hạn chế, chưa đồng bộ, ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả triển khai. Một bộ phận giảng viên trẻ tuy có tinh thần nhiệt huyết nhưng kỹ năng công nghệ, năng lực khai thác, sử dụng nền tảng số còn chưa tương xứng với yêu cầu. Cơ chế khuyến khích, động viên, tôn vinh giảng viên trẻ có sáng kiến, đổi mới phương pháp giảng dạy gắn với chuyển đổi số chưa thật rõ nét; việc đánh giá, khen thưởng các sản phẩm học liệu số, bài giảng điện tử chưa được quan tâm đúng mức.
     Tổng thể cho thấy, dù còn những khó khăn bước đầu, phong trào “Bình dân học vụ số” đã tạo động lực và môi trường thực tiễn để đội ngũ giảng viên trẻ khẳng định năng lực, bản lĩnh và tinh thần tiên phong. Qua đó, họ ngày càng trưởng thành về tư duy công nghệ, năng lực sư phạm, khả năng thích ứng với yêu cầu chuyển đổi số trong giáo dục - đào tạo quân sự, góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa mục tiêu xây dựng “Nhà trường thông minh”, “Người thầy số” trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
     3. Giải pháp phát huy vai trò giảng viên trẻ trong thực hiện phong trào “Bình dân học vụ số”, nâng cao chất lượng giảng dạy ở các các học viện, nhà trường trong Quân đội, nhà trường trong Quân đội
     Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Muốn biết thì phải thi đua học. Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm” và nhấn mạnh: “Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình”. Những lời dạy đó thể hiện tầm nhìn sâu sắc của Người về vai trò của tri thức và học tập suốt đời. Tổng Bí thư Tô Lâm cũng khẳng định: Học tập suốt đời để dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, để trở thành người có ích cho xã hội. Lời nhắn gửi ấy là kim chỉ nam cho phong trào “Bình dân học vụ số”, đặt ra yêu cầu giảng viên trẻ phải học để dấn thân, sáng tạo, đổi mới trong giảng dạy, nghiên cứu và quản lý.
     Do vậy, để phát huy vai trò giảng viên trẻ trong thực hiện phong trào “Bình dân học vụ số”, nâng cao chất lượng giảng dạy ở các các học viện, nhà trường trong Quân đội, nhà trường trong Quân đội cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
     Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho đội ngũ giảng viên trẻ về ý nghĩa, mục tiêu và yêu cầu của phong trào “Bình dân học vụ số” gắn với sự nghiệp chuyển đổi số của Quân đội.
     Phát huy vai trò giảng viên trẻ trong phong trào “Bình dân học vụ số” trước hết cần bắt đầu từ việc nâng cao nhận thức đúng đắn, toàn diện về vị trí, ý nghĩa chiến lược của phong trào đối với sự phát triển giáo dục - đào tạo quân sự trong giai đoạn mới. Các học viện, nhà trường cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, giúp giảng viên trẻ thấm nhuần tinh thần “Học tập suốt đời” và quán triệt sâu sắc chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Qua đó, nhận thức rõ phong trào “Bình dân học vụ số” không chỉ là nhiệm vụ trước mắt, mà là giải pháp chiến lược trong xây dựng “người thầy số”, “nhà trường thông minh”, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
     Công tác tuyên truyền, giáo dục cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, có chiều sâu và sáng tạo về hình thức. Cùng với việc quán triệt các văn bản chỉ đạo của cấp trên, các học viện, nhà trường cần tổ chức đa dạng các hoạt động tuyên truyền như diễn đàn, hội thảo, tọa đàm, sinh hoạt học thuật, hội thi sáng kiến chuyển đổi số trong giảng dạy, các buổi chia sẻ kinh nghiệm ứng dụng công nghệ số trong xây dựng bài giảng, học liệu điện tử. Những hoạt động này sẽ góp phần lan tỏa tinh thần học tập, sáng tạo, khơi dậy khát vọng cống hiến và tinh thần tiên phong của giảng viên trẻ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, cần giúp giảng viên trẻ nhận thức sâu sắc rằng việc tham gia tích cực vào phong trào “Bình dân học vụ số” không chỉ là yêu cầu về mặt chính trị mà còn là cơ hội để khẳng định năng lực, bản lĩnh, trí tuệ và sự sáng tạo của bản thân. Thông qua đó, mỗi giảng viên trẻ sẽ hình thành động cơ học tập đúng đắn, tinh thần tự giác, cầu thị, chủ động tiếp cận, ứng dụng công nghệ mới vào giảng dạy và nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số toàn diện trong các học viện, nhà trường Quân đội hiện nay.
     Hai là, đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng năng lực sư phạm số và kỹ năng công nghệ cho giảng viên trẻ.
     Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, nâng cao năng lực số cho giảng viên trẻ là yêu cầu tất yếu để họ thích ứng, làm chủ và dẫn dắt quá trình đổi mới dạy học trong Quân đội. Các học viện, nhà trường cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng bài bản, liên tục và có chiều sâu về năng lực sư phạm số, năng lực thiết kế, tổ chức dạy học trên môi trường số, năng lực quản trị lớp học trực tuyến, bảo đảm an toàn thông tin và đạo đức học thuật trong không gian mạng.
     Nội dung bồi dưỡng cần tập trung vào thực hành và ứng dụng, giúp giảng viên trẻ làm chủ các công cụ, phần mềm hỗ trợ dạy học hiện đại như hệ thống quản lý học tập qlms.bqp.vn, phần mềm QiMe, các nền tảng thiết kế bài giảng e-learning, phần mềm mô phỏng 3D, hoặc công cụ tương tác trực tuyến. Cùng với đó, cần phát triển các chương trình “bồi dưỡng đồng nghiệp”, trong đó giảng viên trẻ có năng lực công nghệ hướng dẫn, hỗ trợ đồng nghiệp khác cùng tiến bộ, hình thành văn hóa học tập số bền vững trong nhà trường.
     Bên cạnh việc đào tạo tập trung, các nhà trường có thể tổ chức diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, ngày hội trải nghiệm công nghệ sư phạm, hoặc chương trình “mỗi giảng viên trẻ, một sáng kiến chuyển đổi số”, nhằm khuyến khích giảng viên trẻ tự học, phát huy tính sáng tạo trong quá trình giảng dạy. Qua đó, hình thành đội ngũ giảng viên trẻ có tư duy số, phương pháp giảng dạy hiện đại, kỹ năng sử dụng công nghệ thành thạo, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học trong Quân đội thời kỳ mới.
     Ba là, xây dựng môi trường học thuật số và văn hóa sư phạm sáng tạo trong các nhà trường Quân đội.
     Xây dựng môi trường học thuật số không chỉ là việc đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ, mà còn là quá trình kiến tạo không gian tri thức mở, thúc đẩy tinh thần đổi mới, sáng tạo và chia sẻ trong giảng dạy, học tập, nghiên cứu. Trong môi trường đó, giảng viên trẻ được tạo điều kiện tối đa để phát huy năng lực, khẳng định bản lĩnh nghề nghiệp và lan tỏa giá trị tri thức tới đồng nghiệp, học viên.
     Các học viện, nhà trường cần chú trọng phát triển đồng bộ môi trường sư phạm số, với hệ thống lớp học thông minh, phòng học tương tác, thư viện số, học liệu mở; bảo đảm mọi giảng viên có thể tiếp cận, khai thác hiệu quả các nền tảng học tập và nghiên cứu hiện đại. Duy trì, phát huy các “câu lạc bộ giảng viên trẻ chuyển đổi số”, “tổ tư vấn kỹ năng số”, khuyến khích văn hóa học thuật cởi mở, hợp tác, tôn trọng sáng tạo, coi trọng ý kiến, sáng kiến của giảng viên trẻ trong cải tiến phương pháp, đổi mới nội dung, ứng dụng công nghệ vào dạy học.
     Bên cạnh đó, việc xây dựng văn hóa sư phạm sáng tạo, nhân văn, kỷ cương là yêu cầu quan trọng để tạo động lực phát triển cho giảng viên trẻ. Mỗi khoa, bộ môn cần hình thành “văn hóa học tập suốt đời”, nơi mọi thành viên đều coi việc học, nghiên cứu, đổi mới là nhu cầu tự thân và là tiêu chí đánh giá phẩm chất nghề nghiệp. Khi môi trường học thuật số và văn hóa sư phạm sáng tạo được xây dựng vững chắc, giảng viên trẻ sẽ thực sự trở thành hạt nhân đổi mới, người truyền cảm hứng và dẫn dắt chuyển đổi số trong giáo dục - đào tạo quân sự, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và khẳng định vị thế của nhà trường Quân đội trong kỷ nguyên số.
      Bốn là, hoàn thiện cơ chế khuyến khích, tôn vinh giảng viên trẻ tiêu biểu trong chuyển đổi số.
     Động lực là yếu tố quyết định để giảng viên trẻ phát huy tối đa năng lực, sáng tạo và khát vọng cống hiến. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, tôn vinh và bảo đảm điều kiện thuận lợi cho giảng viên trẻ phát triển toàn diện là yêu cầu cấp thiết, góp phần đưa phong trào “Bình dân học vụ số” đi vào thực chất, bền vững.
     Trước hết, các học viện, nhà trường cần cụ thể hóa chủ trương của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ chuyển đổi số, gắn việc đánh giá, xếp loại, bình xét thi đua – khen thưởng với kết quả đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng học liệu số và tham gia phong trào “Bình dân học vụ số”. Các tiêu chí khen thưởng cần chú trọng chất lượng, hiệu quả và tính lan tỏa của sáng kiến chuyển đổi số, thay vì chỉ dừng ở hình thức hoặc số lượng. Cùng với đó, cần có chính sách động viên, khích lệ kịp thời đối với những giảng viên trẻ đạt thành tích xuất sắc trong thiết kế bài giảng e-learning, phát triển học liệu điện tử, xây dựng lớp học số, hoặc tham gia nghiên cứu khoa học ứng dụng công nghệ. Việc tổ chức tôn vinh, biểu dương giảng viên trẻ tiêu biểu trong chuyển đổi số, thông qua các danh hiệu như “Giảng viên trẻ sáng tạo”, “Giảng viên số tiêu biểu”, “Người truyền cảm hứng học tập số”, không chỉ là sự ghi nhận cá nhân, mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong toàn trường, thúc đẩy tinh thần học hỏi, đổi mới và cạnh tranh lành mạnh.
     Khi cơ chế khuyến khích được xây dựng đồng bộ, công bằng và nhân văn, giảng viên trẻ sẽ được truyền cảm hứng, khơi dậy niềm tự hào và khát vọng cống hiến, trở thành lực lượng tiên phong, sáng tạo trong chuyển đổi số, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và xây dựng hình ảnh người giảng viên Quân đội “vững vàng, trí tuệ, nhân văn, hiện đại” trong thời kỳ mới.
     Năm là, đầu tư, hiện đại hóa hạ tầng công nghệ và trang thiết bị phục vụ dạy học trên nền tảng “Bình dân học vụ số”, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong giáo dục - đào tạo quân sự.
     Cơ sở hạ tầng công nghệ là nền tảng vật chất - kỹ thuật quyết định hiệu quả triển khai phong trào “Bình dân học vụ số” và tiến trình chuyển đổi số trong các học viện, nhà trường Quân đội. Vì vậy, cần xác định phát triển hạ tầng công nghệ thông tin là khâu đột phá, nhiệm vụ chiến lược trong xây dựng nhà trường chính quy, mẫu mực, hiện đại.
     Trước hết, cần chủ động rà soát, đánh giá thực trạng hệ thống hạ tầng công nghệ hiện có, từ đó xây dựng kế hoạch đầu tư, nâng cấp đồng bộ các hạng mục thiết yếu: mạng truyền dẫn tốc độ cao, hệ thống máy chủ, thiết bị lưu trữ dữ liệu, phòng học thông minh, bảng tương tác, máy tính cá nhân cho giảng viên, học viên, cùng các phần mềm hỗ trợ dạy học trực tuyến và học tập kết hợp (blended learning). Đồng thời, cần tích hợp và đồng bộ các nền tảng, ứng dụng phục vụ dạy học số như qlms.bqp.vn, QiMe, Microsoft Teams, Google Classroom, Zoom… tạo thành một hệ sinh thái học tập số thống nhất, an toàn và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu dạy học, kiểm tra đánh giá, quản lý trong môi trường giáo dục quân sự. Bên cạnh nguồn đầu tư từ ngân sách quốc phòng, các nhà trường cần chủ động, sáng tạo huy động thêm nguồn lực để hiện đại hóa cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy số. Có thể xây dựng “phòng học số mẫu” hoặc “trung tâm chuyển đổi số sư phạm” làm điểm tham quan, thực hành, chia sẻ kinh nghiệm. Đồng thời, khuyến khích sáng kiến kỹ thuật, cải tiến thiết bị, phần mềm nội bộ của giảng viên, kỹ sư quân đội nhằm tối ưu hạ tầng công nghệ. Cùng với đầu tư hạ tầng, cần hoàn thiện cơ chế quản lý, vận hành, khai thác thiết bị khoa học, tiết kiệm, hiệu quả; bồi dưỡng đội ngũ kỹ thuật viên, cán bộ công nghệ thông tin đủ năng lực hỗ trợ giảng viên, học viên trong quá trình sử dụng.
     Việc đầu tư, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại không chỉ tạo nền tảng kỹ thuật vững chắc cho phong trào “Bình dân học vụ số”, mà còn là yếu tố then chốt thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục - đào tạo quân sự theo hướng thực chất, hiệu quả. Đây là điều kiện quan trọng để đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng huấn luyện, nghiên cứu khoa học, góp phần xây dựng nhà trường Quân đội chính quy, mẫu mực, hiện đại trong thời kỳ mới.
     Phát huy vai trò đội ngũ giảng viên trẻ trong phong trào “Bình dân học vụ số” là nhiệm vụ vừa cấp thiết, vừa có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục - đào tạo trong Quân đội. Khi được định hướng đúng và tạo điều kiện phát triển, giảng viên trẻ sẽ trở thành lực lượng xung kích trong chuyển đổi số, góp phần xây dựng các học viện, nhà trường quân đội vững mạnh, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại./.

Tài liệu tham khảo:
  1. Bộ Chính trị (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
  2. Văn Hiếu (2025), Bộ Quốc phòng quán triệt, triển khai Phong trào “Bình dân học vụ số”, Báo điện tử Quân đội nhân dân, ngày 13/05/2024.
  3. Tô Lâm (2025), “Học tập suốt đời”, https://baochinhphu.vn/bai-viet-cua-tong-bi-thu-to-lam-hoc-tap-suot-doi-102250301172143439.htm
  4. Hồ Chí Minh (2011) Toàn tập, tập 6, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Có thể bạn quan tâm
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây