Tình người trong thiên tai, bão lũ thể hiện phẩm chất đoàn kết, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam ( Nguồn ảnh Chinhphu.vn)
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đúc kết một cách cô đọng và sâu sắc: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, 2011, tập 3, tr.256). Người nhấn mạnh phải đoàn kết mau, đoàn kết mãi, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công.
Điểm đặc sắc trong tinh thần đoàn kết dân tộc Việt Nam còn nằm ở lòng nhân ái, bao dung - không chỉ hướng nội trong cộng đồng dân tộc mà còn vươn tới những người bên kia chiến tuyến. Lòng khoan dung ấy, như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện qua cả cuộc đời hoạt động cách mạng, mang trong mình sức mạnh cảm hóa to lớn, là nền tảng cho hòa giải, tái tạo lương tri và xây dựng hòa bình bền vững.
Truyền thống lạc quan, yêu đời và niềm tin vào chính nghĩa
Trải qua bao biến thiên lịch sử, dân tộc Việt Nam vẫn duy trì một tinh thần sống lạc quan, yêu đời, kiên định vào thắng lợi cuối cùng. Câu ngạn ngữ “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo” là minh chứng sống động cho thái độ sống ấy. Dù trong bão lũ thiên tai, hay dưới làn bom đạn của chiến tranh, người Việt vẫn giữ vững niềm tin vào bản thân, vào chính nghĩa, và vào tương lai tươi sáng của đất nước. Sức mạnh tinh thần ấy không chỉ là ý chí vượt khó mà còn là sự hài hòa giữa lý trí và cảm xúc, giữa hy sinh và khát vọng sống. Niềm tin vào công lý, vào trí tuệ và sự đoàn kết là nền tảng giúp dân tộc ta không bị khuất phục dù gặp muôn vàn trở lực. Đó là tinh thần “biến đau thương thành hành động”, chuyển nghịch cảnh thành động lực phát triển.
Truyền thống cần cù, dũng cảm, sáng tạo, hiếu học, trọng hiền tài
Trên dải đất không được thiên nhiên ưu đãi, với khí hậu khắc nghiệt, đất đai bạc màu, bão lụt thường xuyên, người Việt Nam đã sớm hình thành những phẩm chất đặc trưng như cần cù, chịu khó và sáng tạo trong lao động sản xuất. Từ công cuộc trị thủy, khai hoang lập ấp đến tổ chức sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp, người Việt luôn biết thích nghi, linh hoạt và sáng tạo để vượt qua hoàn cảnh. Tinh thần đó không chỉ biểu hiện trong lao động, mà còn được phát huy mạnh mẽ trong chiến đấu - nơi trí tuệ, mưu lược và sự chủ động đã tạo nên những chiến công vang dội.
Dũng cảm cũng là phẩm chất được tôi luyện xuyên suốt chiều dài lịch sử chống giặc ngoại xâm, từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu đến Lê Lợi, Quang Trung và hàng triệu anh hùng vô danh. Chính sự kết hợp giữa lòng quả cảm và tư duy sáng tạo đã tạo nên bản sắc đặc biệt trong nghệ thuật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam: chiến thắng không chỉ bằng vũ khí, mà bằng lòng dân, bằng trí tuệ.
Đặc biệt, người Việt từ lâu đã nổi tiếng là dân tộc hiếu học. Trong hoàn cảnh thiếu thốn vật chất, tinh thần “tôn sư trọng đạo”, “học để làm người”, “hiền tài là nguyên khí quốc gia” luôn được đề cao và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống học hỏi của dân tộc ta không khép kín mà rất cởi mở - biết tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, cải biến để làm giàu cho bản sắc văn hóa Việt. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “học suốt đời”, “học trong nhân dân”, “học để phụng sự Tổ quốc” chính là sự kế thừa và phát triển sinh động của tinh thần đó trong thời đại mới.
Ngay từ những ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng vai trò của nhân tài đối với công cuộc kiến thiết đất nước. Trong bài “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu Quốc ngày 20-11-1946, Người viết: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức... Các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, 2011, tập 4, tr.504). Đây không chỉ là một lời kêu gọi, mà còn là một “chiếu cầu hiền” của thời đại cách mạng, thể hiện sâu sắc tư tưởng chiến lược về phát triển đất nước bằng sức mạnh của trí tuệ và tinh thần dân tộc.
2. Giá trị hiện thực của sức mạnh tinh thần trong kỷ nguyên mới
Bước vào thế kỷ XXI, thế giới đang chứng kiến những biến động sâu sắc chưa từng có: sự tái cấu trúc địa - chính trị toàn cầu, khủng hoảng kinh tế nối tiếp dịch bệnh, xung đột cục bộ kéo dài, biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, cùng với đó là làn sóng công nghệ 4.0, trí tuệ nhân tạo, kinh tế số và sự lan tỏa của các giá trị xuyên văn hóa. Trong bối cảnh đó, các quốc gia không chỉ cạnh tranh về tiềm lực kinh tế và quân sự, mà còn phải khẳng định bản lĩnh văn hóa, bản sắc dân tộc và sức mạnh tinh thần của cộng đồng quốc gia - dân tộc. Đối với Việt Nam, sức mạnh tinh thần dân tộc tiếp tục phát huy giá trị to lớn và thiết thực trong nhiều lĩnh vực, trở thành điểm tựa chiến lược để bảo vệ vững chắc độc lập, tự chủ và hướng tới phát triển bền vững.
Trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng: Củng cố niềm tin, bảo vệ nền tảng tư tưởng, giữ vững ổn định quốc gia. Sức mạnh tinh thần dân tộc trước hết thể hiện ở lòng trung thành tuyệt đối với mục tiêu độc lập, chủ quyền và con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng và Bác Hồ lựa chọn. Trong bối cảnh các thế lực thù địch không ngừng thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, xuyên tạc lịch sử, kích động chia rẽ nội bộ và tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì sự kiên định về lý tưởng, niềm tin vào chính nghĩa dân tộc và sự đoàn kết toàn dân tộc chính là “lá chắn mềm” nhưng vô cùng vững chắc để bảo vệ chế độ, giữ gìn ổn định chính trị - xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Để đập tan những cố gắng tuyệt vọng nhất của kẻ thù hung bạo, nhân dân ta đang phải góp hết sức mạnh tinh thần và vật chất vào việc tăng cường đoàn kết, tích cực đấu tranh và xây dựng đất nước” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, tr.127). Đó không chỉ là lời kêu gọi trong kháng chiến, mà còn là kim chỉ nam để giữ vững hệ thống chính trị trong bối cảnh hiện đại, nơi mà chiến lược xâm nhập tư tưởng, thao túng truyền thông và phá hoại niềm tin trở thành một “mặt trận phi truyền thống” nguy hiểm hơn bao giờ hết.
Trong lĩnh vực kinh tế: Tạo động lực đổi mới, khơi dậy tinh thần vượt khó, sáng tạo trong phát triển. Trong thời đại hội nhập sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội và thách thức: từ việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến áp lực cạnh tranh chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, tăng năng suất và giữ vững chủ quyền kinh tế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bối cảnh ấy, điều tạo nên sự khác biệt không chỉ là nguồn vốn hay công nghệ, mà chính là tinh thần vượt khó, tinh thần dấn thân đổi mới sáng tạo và khát vọng vươn lên.
Truyền thống cần cù, thông minh, dám nghĩ dám làm của người Việt Nam trong sản xuất, kinh doanh chính là một phần cốt lõi của sức mạnh tinh thần dân tộc. Sức mạnh ấy hôm nay tiếp tục được thể hiện qua hàng triệu người lao động, doanh nhân khởi nghiệp, trí thức đổi mới sáng tạo - những chủ thể đang ngày đêm góp phần đưa kinh tế đất nước vượt qua những cú sốc toàn cầu và vươn lên tầm cao mới.
Trong lĩnh vực xã hội: Gắn kết cộng đồng, thúc đẩy nhân văn, lan tỏa giá trị đạo lý dân tộc. Một xã hội phát triển không thể chỉ dựa trên chỉ số GDP, mà còn cần đến sự cố kết xã hội, lòng nhân ái, ý thức cộng đồng và tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc. Trong đó, truyền thống tương thân tương ái, lối sống “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân” đã và đang tạo ra nền tảng đạo lý vững chắc để toàn dân đoàn kết vượt qua các cuộc khủng hoảng xã hội, đặc biệt là trong thiên tai, dịch bệnh, biến động kinh tế.
Việc khơi dậy và phát huy sức mạnh tinh thần trong cộng đồng chính là cách để “lành mạnh hóa” đời sống xã hội, tăng cường đồng thuận và phòng chống hiệu quả các biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống thực dụng, ích kỷ đang len lỏi trong một bộ phận nhân dân. Đồng thời, đó còn là tiền đề để lan tỏa những giá trị tốt đẹp trong công cuộc xây dựng con người mới, nền văn hóa mới trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục: Giữ vững bản sắc, phát triển con người, xây dựng sức mạnh mềm quốc gia. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là “hồn cốt” của dân tộc. Trong quá trình toàn cầu hóa, văn hóa Việt Nam đứng trước nguy cơ bị thương mại hóa, lai tạp hoặc mai một do ảnh hưởng của các dòng chảy văn hóa ngoại lai. Trong hoàn cảnh đó, sức mạnh tinh thần của dân tộc - với cốt lõi là bản sắc văn hóa Việt - trở thành một lực đẩy quan trọng trong việc xây dựng hệ giá trị mới, phát triển con người Việt Nam toàn diện, giàu lòng yêu nước, có trách nhiệm công dân và bản lĩnh hội nhập.