trongdong
text logo

SỨC MẠNH TINH THẦN DÂN TỘC VIỆT NAM - TỪ DI SẢN LỊCH SỬ ĐẾN NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI

Tác giả bài viết: Phạm Đăng Khánh - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Thứ sáu - 13/06/2025 00:17
Sức mạnh tinh thần dân tộc Việt Nam là một giá trị mang tính trường tồn, được kết tinh từ lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Nó không chỉ là yếu tố cốt lõi tạo nên bản sắc văn hóa - chính trị - đạo lý Việt, mà còn là nội lực vô giá góp phần đưa dân tộc vượt qua muôn vàn thử thách. Từ truyền thống bất khuất trong kháng chiến đến tinh thần đổi mới và hội nhập hiện nay, sức mạnh ấy luôn hiện diện như một ngọn lửa không bao giờ tắt.
1. Những yếu tố tạo nên sức mạnh tinh thần dân tộc Việt Nam

Sức mạnh tinh thần của dân tộc Việt Nam là tổng thể những giá trị tư tưởng, đạo lý, bản lĩnh văn hóa - chính trị và phẩm chất truyền thống đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Sức mạnh ấy được cấu thành bởi nhiều yếu tố như: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập và tinh thần bất khuất trước ngoại xâm, truyền thống đoàn kết cộng đồng, lối sống nhân nghĩa, cần cù, sáng tạo, hiếu học và khát vọng vươn lên. Chủ thể làm nên và duy trì sức mạnh tinh thần này là toàn thể nhân dân Việt Nam - từ những cá nhân bình dị đến các thế hệ lãnh tụ kiệt xuất, từ cộng đồng làng xã truyền thống đến các tầng lớp trí thức, công nhân, nông dân, chiến sĩ qua các thời kỳ lịch sử. Trải qua bao biến cố thăng trầm, sức mạnh tinh thần ấy luôn là nền tảng vững chắc bảo vệ độc lập, chủ quyền và bản sắc dân tộc, đồng thời trở thành nguồn lực nội sinh to lớn, góp phần quyết định vào sự phát triển bền vững và hội nhập tự chủ của đất nước trong thời đại mới.

Chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất

Yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc Việt Nam, là động lực tinh thần mạnh mẽ nhất giúp dân tộc ta vượt qua biết bao thử thách cam go. Sống trong điều kiện địa - chính trị phức tạp, thường xuyên đối mặt với các thế lực xâm lược và thiên tai, người Việt sớm hình thành tinh thần cảnh giác, ý chí kiên cường và khát vọng bảo vệ độc lập, chủ quyền. Lòng yêu nước vì thế không chỉ là tình cảm mà trở thành lý tưởng sống, là động cơ hành động mang tính phổ quát của mọi tầng lớp nhân dân.

 
a1
Từ Bạch Đằng Giang, Ngọc Hồi - Đống Đa đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngọn lửa sức mạnh tinh thần yêu nước chưa bao giờ tắt ( Nguồn ảnh: TTXVN)

Từ hình tượng Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo đến những cuộc kháng chiến trường kỳ dưới ngọn cờ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, “một tấc không đi, một ly không rời” luôn hiện hữu như một lẽ sống cao cả của dân tộc Việt Nam. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, những khẩu hiệu như “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” đã trở thành tiếng gọi thiêng liêng vang dội từ trái tim dân tộc.

Truyền thống yêu nước của dân tộc được Hồ Chí Minh khái quát: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Hồ Chí Minh, toàn tập, 2011, tập 7, tr.38). Chủ nghĩa yêu nước không chỉ là giá trị tinh thần hàng đầu, mà còn là chuẩn mực đạo đức, là trục quy chiếu cho mọi hệ tư tưởng khi du nhập vào Việt Nam.

Truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết cộng đồng

Tinh thần đại đoàn kết toàn dân - một truyền thống bền vững của dân tộc Việt Nam - được hình thành và hun đúc từ yêu cầu sinh tồn trước thiên tai và ngoại xâm. Với nền kinh tế nông nghiệp lúa nước cùng đời sống làng xã chặt chẽ, người Việt sớm phát triển nếp sống cộng đồng, đề cao tình nghĩa, sự sẻ chia và hợp lực tập thể. Từ việc xây dựng đê điều chống lũ lụt đến tổ chức kháng chiến chống giặc ngoại xâm, sức mạnh cộng đồng luôn đóng vai trò quyết định thắng lợi. Tư tưởng ấy được nhân dân thể hiện sâu sắc qua ca dao:

 
“Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.

 
Tổ chức làng xã truyền thống không chỉ là đơn vị cư trú mà còn là môi trường dưỡng thành ý thức cộng đồng và lòng yêu nước. Những biểu hiện như “tắt lửa tối đèn có nhau”, “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân” phản ánh sâu sắc đạo lý nhân nghĩa và tinh thần đoàn kết vượt qua mọi hoàn cảnh khắc nghiệt. Chính truyền thống này đã trở thành nền tảng để Đảng ta phát huy sức mạnh toàn dân trong các cuộc kháng chiến giành độc lập và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
 
a2
Tình người trong thiên tai, bão lũ thể hiện phẩm chất đoàn kết, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam ( Nguồn ảnh Chinhphu.vn)

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đúc kết một cách cô đọng và sâu sắc: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, 2011, tập 3, tr.256). Người nhấn mạnh phải đoàn kết mau, đoàn kết mãi, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công.
 
Điểm đặc sắc trong tinh thần đoàn kết dân tộc Việt Nam còn nằm ở lòng nhân ái, bao dung - không chỉ hướng nội trong cộng đồng dân tộc mà còn vươn tới những người bên kia chiến tuyến. Lòng khoan dung ấy, như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện qua cả cuộc đời hoạt động cách mạng, mang trong mình sức mạnh cảm hóa to lớn, là nền tảng cho hòa giải, tái tạo lương tri và xây dựng hòa bình bền vững.

Truyền thống lạc quan, yêu đời và niềm tin vào chính nghĩa

Trải qua bao biến thiên lịch sử, dân tộc Việt Nam vẫn duy trì một tinh thần sống lạc quan, yêu đời, kiên định vào thắng lợi cuối cùng. Câu ngạn ngữ “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo” là minh chứng sống động cho thái độ sống ấy. Dù trong bão lũ thiên tai, hay dưới làn bom đạn của chiến tranh, người Việt vẫn giữ vững niềm tin vào bản thân, vào chính nghĩa, và vào tương lai tươi sáng của đất nước. Sức mạnh tinh thần ấy không chỉ là ý chí vượt khó mà còn là sự hài hòa giữa lý trí và cảm xúc, giữa hy sinh và khát vọng sống. Niềm tin vào công lý, vào trí tuệ và sự đoàn kết là nền tảng giúp dân tộc ta không bị khuất phục dù gặp muôn vàn trở lực. Đó là tinh thần “biến đau thương thành hành động”, chuyển nghịch cảnh thành động lực phát triển.

Truyền thống cần cù, dũng cảm, sáng tạo, hiếu học, trọng hiền tài

Trên dải đất không được thiên nhiên ưu đãi, với khí hậu khắc nghiệt, đất đai bạc màu, bão lụt thường xuyên, người Việt Nam đã sớm hình thành những phẩm chất đặc trưng như cần cù, chịu khó và sáng tạo trong lao động sản xuất. Từ công cuộc trị thủy, khai hoang lập ấp đến tổ chức sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp, người Việt luôn biết thích nghi, linh hoạt và sáng tạo để vượt qua hoàn cảnh. Tinh thần đó không chỉ biểu hiện trong lao động, mà còn được phát huy mạnh mẽ trong chiến đấu - nơi trí tuệ, mưu lược và sự chủ động đã tạo nên những chiến công vang dội.

Dũng cảm cũng là phẩm chất được tôi luyện xuyên suốt chiều dài lịch sử chống giặc ngoại xâm, từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu đến Lê Lợi, Quang Trung và hàng triệu anh hùng vô danh. Chính sự kết hợp giữa lòng quả cảm và tư duy sáng tạo đã tạo nên bản sắc đặc biệt trong nghệ thuật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam: chiến thắng không chỉ bằng vũ khí, mà bằng lòng dân, bằng trí tuệ.

Đặc biệt, người Việt từ lâu đã nổi tiếng là dân tộc hiếu học. Trong hoàn cảnh thiếu thốn vật chất, tinh thần “tôn sư trọng đạo”, “học để làm người”, “hiền tài là nguyên khí quốc gia” luôn được đề cao và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống học hỏi của dân tộc ta không khép kín mà rất cởi mở - biết tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, cải biến để làm giàu cho bản sắc văn hóa Việt. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “học suốt đời”, “học trong nhân dân”, “học để phụng sự Tổ quốc” chính là sự kế thừa và phát triển sinh động của tinh thần đó trong thời đại mới.

Ngay từ những ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng vai trò của nhân tài đối với công cuộc kiến thiết đất nước. Trong bài “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu Quốc ngày 20-11-1946, Người viết: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức... Các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, 2011, tập 4, tr.504). Đây không chỉ là một lời kêu gọi, mà còn là một “chiếu cầu hiền” của thời đại cách mạng, thể hiện sâu sắc tư tưởng chiến lược về phát triển đất nước bằng sức mạnh của trí tuệ và tinh thần dân tộc.

2. Giá trị hiện thực của sức mạnh tinh thần trong kỷ nguyên mới

Bước vào thế kỷ XXI, thế giới đang chứng kiến những biến động sâu sắc chưa từng có: sự tái cấu trúc địa - chính trị toàn cầu, khủng hoảng kinh tế nối tiếp dịch bệnh, xung đột cục bộ kéo dài, biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, cùng với đó là làn sóng công nghệ 4.0, trí tuệ nhân tạo, kinh tế số và sự lan tỏa của các giá trị xuyên văn hóa. Trong bối cảnh đó, các quốc gia không chỉ cạnh tranh về tiềm lực kinh tế và quân sự, mà còn phải khẳng định bản lĩnh văn hóa, bản sắc dân tộc và sức mạnh tinh thần của cộng đồng quốc gia - dân tộc. Đối với Việt Nam, sức mạnh tinh thần dân tộc tiếp tục phát huy giá trị to lớn và thiết thực trong nhiều lĩnh vực, trở thành điểm tựa chiến lược để bảo vệ vững chắc độc lập, tự chủ và hướng tới phát triển bền vững.

Trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng: Củng cố niềm tin, bảo vệ nền tảng tư tưởng, giữ vững ổn định quốc gia. Sức mạnh tinh thần dân tộc trước hết thể hiện ở lòng trung thành tuyệt đối với mục tiêu độc lập, chủ quyền và con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng và Bác Hồ lựa chọn. Trong bối cảnh các thế lực thù địch không ngừng thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, xuyên tạc lịch sử, kích động chia rẽ nội bộ và tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì sự kiên định về lý tưởng, niềm tin vào chính nghĩa dân tộc và sự đoàn kết toàn dân tộc chính là “lá chắn mềm” nhưng vô cùng vững chắc để bảo vệ chế độ, giữ gìn ổn định chính trị - xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Để đập tan những cố gắng tuyệt vọng nhất của kẻ thù hung bạo, nhân dân ta đang phải góp hết sức mạnh tinh thần và vật chất vào việc tăng cường đoàn kết, tích cực đấu tranh và xây dựng đất nước” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, tr.127). Đó không chỉ là lời kêu gọi trong kháng chiến, mà còn là kim chỉ nam để giữ vững hệ thống chính trị trong bối cảnh hiện đại, nơi mà chiến lược xâm nhập tư tưởng, thao túng truyền thông và phá hoại niềm tin trở thành một “mặt trận phi truyền thống” nguy hiểm hơn bao giờ hết.

Trong lĩnh vực kinh tế: Tạo động lực đổi mới, khơi dậy tinh thần vượt khó, sáng tạo trong phát triển. Trong thời đại hội nhập sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội và thách thức: từ việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến áp lực cạnh tranh chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, tăng năng suất và giữ vững chủ quyền kinh tế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bối cảnh ấy, điều tạo nên sự khác biệt không chỉ là nguồn vốn hay công nghệ, mà chính là tinh thần vượt khó, tinh thần dấn thân đổi mới sáng tạo và khát vọng vươn lên.

Truyền thống cần cù, thông minh, dám nghĩ dám làm của người Việt Nam trong sản xuất, kinh doanh chính là một phần cốt lõi của sức mạnh tinh thần dân tộc. Sức mạnh ấy hôm nay tiếp tục được thể hiện qua hàng triệu người lao động, doanh nhân khởi nghiệp, trí thức đổi mới sáng tạo - những chủ thể đang ngày đêm góp phần đưa kinh tế đất nước vượt qua những cú sốc toàn cầu và vươn lên tầm cao mới.

Trong lĩnh vực xã hội: Gắn kết cộng đồng, thúc đẩy nhân văn, lan tỏa giá trị đạo lý dân tộc. Một xã hội phát triển không thể chỉ dựa trên chỉ số GDP, mà còn cần đến sự cố kết xã hội, lòng nhân ái, ý thức cộng đồng và tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc. Trong đó, truyền thống tương thân tương ái, lối sống “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân” đã và đang tạo ra nền tảng đạo lý vững chắc để toàn dân đoàn kết vượt qua các cuộc khủng hoảng xã hội, đặc biệt là trong thiên tai, dịch bệnh, biến động kinh tế.

Việc khơi dậy và phát huy sức mạnh tinh thần trong cộng đồng chính là cách để “lành mạnh hóa” đời sống xã hội, tăng cường đồng thuận và phòng chống hiệu quả các biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống thực dụng, ích kỷ đang len lỏi trong một bộ phận nhân dân. Đồng thời, đó còn là tiền đề để lan tỏa những giá trị tốt đẹp trong công cuộc xây dựng con người mới, nền văn hóa mới trong xã hội xã hội chủ nghĩa.

Trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục: Giữ vững bản sắc, phát triển con người, xây dựng sức mạnh mềm quốc gia. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là “hồn cốt” của dân tộc. Trong quá trình toàn cầu hóa, văn hóa Việt Nam đứng trước nguy cơ bị thương mại hóa, lai tạp hoặc mai một do ảnh hưởng của các dòng chảy văn hóa ngoại lai. Trong hoàn cảnh đó, sức mạnh tinh thần của dân tộc - với cốt lõi là bản sắc văn hóa Việt - trở thành một lực đẩy quan trọng trong việc xây dựng hệ giá trị mới, phát triển con người Việt Nam toàn diện, giàu lòng yêu nước, có trách nhiệm công dân và bản lĩnh hội nhập.

 
 
c3
Văn hóa dân tộc - sức mạnh mềm trong kỷ nguyên mới (Nguồn ảnh Chinhphu.vn)

Giáo dục đạo đức, tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng và khát vọng vươn lên cần tiếp tục được nhấn mạnh trong trường học, trong truyền thông, trong môi trường gia đình và cộng đồng. Đây không chỉ là nhiệm vụ của ngành giáo dục - đào tạo mà còn là trách nhiệm chung của toàn hệ thống chính trị. Phát triển con người không thể tách rời bồi đắp tinh thần dân tộc - điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh như một yếu tố quyết định tương lai đất nước.

3. Một số đề xuất phát huy sức mạnh tinh thần dân tộc trong kỷ nguyên mới

Trong điều kiện hiện nay, việc phát huy sức mạnh tinh thần dân tộc không thể dừng lại ở việc tôn vinh giá trị truyền thống, mà cần trở thành một chiến lược mềm, gắn kết với các chính sách phát triển quốc gia, nhằm tạo ra nội lực bền vững và bản lĩnh văn hóa cho toàn xã hội. Dưới đây là một số định hướng lớn cần được tiếp tục triển khai đồng bộ, toàn diện và có chiều sâu.

Một là, tái cấu trúc hệ thống giáo dục - đào tạo theo hướng nhân văn, tích hợp chiều sâu văn hóa dân tộc và tư tưởng Hồ Chí Minh

Trước những biến động nhanh chóng của thời đại, giáo dục không thể chỉ hướng đến cung cấp tri thức kỹ thuật mà cần chú trọng bồi dưỡng lý tưởng sống, đạo đức, bản lĩnh và tinh thần dân tộc cho thế hệ trẻ. Cần đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp giáo dục theo hướng tích hợp các giá trị cốt lõi của tinh thần Việt Nam như lòng yêu nước, tinh thần hiếu học, đoàn kết, vượt khó và khát vọng cống hiến. Đặc biệt, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, văn hóa và tinh thần dân tộc cần được đưa vào giảng dạy một cách sinh động, thiết thực, tránh hình thức và giáo điều. Cần khuyến khích các hình thức giáo dục mở, giáo dục thực hành, kết nối với cộng đồng, để thanh thiếu niên không chỉ tiếp thu lý thuyết mà còn được “sống trong văn hóa Việt”, được nuôi dưỡng bởi những trải nghiệm thực tế mang đậm bản sắc dân tộc.

Hai là, xây dựng hệ sinh thái truyền thông số mang định hướng tư tưởng, văn hóa và giá trị Việt Nam

Trong bối cảnh truyền thông kỹ thuật số chi phối đời sống tinh thần của xã hội hiện đại, việc kiến tạo một hệ sinh thái truyền thông lành mạnh, nhân văn, có bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết. Cần phát triển mạnh các nền tảng số, kênh thông tin, ứng dụng truyền thông xã hội mang tinh thần Việt Nam - nơi mà tinh thần yêu nước, đạo lý dân tộc, lịch sử cách mạng và tư tưởng Hồ Chí Minh được truyền tải bằng hình thức hấp dẫn, phù hợp với giới trẻ.

Đồng thời, cần có chính sách kiểm soát và phản bác kịp thời các nội dung độc hại, xuyên tạc, phi văn hóa đang làm xói mòn giá trị tinh thần dân tộc. Việc xây dựng đội ngũ sáng tạo nội dung, nhà báo, nhà văn hóa có bản lĩnh chính trị và trình độ công nghệ cần được xem là một nhiệm vụ chiến lược trong bảo vệ không gian tinh thần Việt Nam trong kỷ nguyên số.

Ba là, tổ chức các không gian sáng tạo văn hóa, sự kiện cộng đồng và diễn đàn đối thoại dân tộc nhằm khơi dậy lòng tự hào và bản lĩnh Việt

Để sức mạnh tinh thần không trở thành những khẩu hiệu trừu tượng, cần cụ thể hóa thành những không gian văn hóa sống động, thiết thực và gần gũi với nhân dân. Việc tổ chức các lễ hội truyền thống, ngày hội thanh niên sáng tạo, các diễn đàn đối thoại liên thế hệ, chương trình tìm hiểu lịch sử dân tộc qua công nghệ tương tác… sẽ giúp tạo ra những “mạch dẫn” văn hóa mới, làm cho tinh thần Việt lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống xã hội.

Bên cạnh đó, cần khuyến khích sáng tạo văn học - nghệ thuật, nghiên cứu khoa học, điện ảnh và các sản phẩm văn hóa ứng dụng mang đậm hồn cốt dân tộc, phù hợp với thời đại. Văn hóa không thể phát triển nếu không có người sáng tạo văn hóa có lý tưởng, có tinh thần dân tộc và trách nhiệm xã hội.

Bốn là, kết hợp hài hòa giữa sức mạnh tinh thần và các yếu tố vật chất - kỹ thuật trong quản trị quốc gia
Một quốc gia hiện đại không thể chỉ phát triển trên nền tảng vật chất mà cần có một nền tảng tinh thần vững chắc để điều tiết sự phát triển theo hướng bền vững. Trong điều kiện hiện nay, việc hoạch định chính sách cần gắn với việc phát huy giá trị văn hóa - tinh thần, từ thiết kế chính sách an sinh xã hội, giáo dục công dân số, đến chiến lược đối ngoại văn hóa.

Đúng như Đảng ta đã chỉ rõ trong Văn kiện Đại hội XIII: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển nhanh và bền vững”. Sự phát triển thực chất chỉ có thể đạt được khi quản trị nhà nước không tách rời việc bồi dưỡng tinh thần dân tộc, nâng cao phẩm chất con người và kết nối giữa truyền thống - hiện đại trong từng quyết sách.

Sức mạnh tinh thần là cội nguồn nội lực bền vững của dân tộc Việt Nam, được hun đúc từ lịch sử dựng nước và giữ nước, kết tinh trong lòng yêu nước, ý chí độc lập, tinh thần đoàn kết, lối sống nhân văn và khát vọng phát triển. Trong kỷ nguyên mới, khi thế giới biến động nhanh chóng, sức mạnh tinh thần càng thể hiện rõ vai trò là nền tảng giữ vững bản sắc, củng cố niềm tin, tạo động lực đổi mới và nâng cao vị thế quốc gia. Phát huy sức mạnh ấy không chỉ là tiếp nối truyền thống, mà còn là yêu cầu chiến lược trong xây dựng con người Việt Nam hiện đại, phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc chủ quyền. Đó là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong hành trình hiện thực hóa khát vọng Việt Nam phồn vinh,  hùng cường, và hội nhập.

Tài liệu tham khảo:
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr.38.
[2]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 3, tr.256.
[3]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.504.
[4]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, 3, tr.127.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

Tổng số điểm của bài viết là: 11 trong 3 đánh giá

Xếp hạng: 3.7 - 3 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây