Ngày xưa, nhà thơ Tú Sót (Chu Thành) nhân ngày kỷ niệm ngày Quốc tế phụ nữ (8/3) để bày tỏ lòng thành, có làm thơ tặng vợ:
“Hôm nay mồng tám tháng ba
Tôi giặt cho bà cái áo của tôi”
Nghe nói, khi đọc lên thì bà vợ ông cười như nắc nẻ, còn ông lại rất nghiêm trang mà bảo với mọi người là ông chỉ muốn khóc… Khi đó, có lẽ vì còn trẻ, tôi không hiểu được vì sao làm được một câu thơ hay và rất vui như vậy mà nhà thơ lại nói muốn khóc. Bây giờ khi đã con cháu đề huề ở tuổi đã “lên lão”, đọc câu này, bỗng dưng tự mình cũng thấy nước mắt cứ muốn trào ra…
Chúng ta, những người chồng đôi khi cũng thật sự vô tình. Được quan tâm chăm sóc đầy đủ nhưng có lúc vẫn cứ tưởng như đó là một đặc ân trời phú, quá đỗi bình thường, quá đỗi tự nhiên. Ôi, phải chăng sự chăm sóc cho chồng con, đã là một bổn phận của phụ nữ, của những người vợ tần tảo, còn chúng ta, những người đàn ông được hưởng sự chăm sóc ấy cũng là một lẽ đương nhiên, chẳng có gì phải suy nghĩ…
Cũng may lại có ngày 8/3, để mà quanh năm có được một ngày nhận ra được sự vô tình, vô cảm của chính mình. Thôi thì hối hận quá, thấy mình vô tích sự quá, đành giặt cái áo của chính mình giúp cho vợ? Mà ông nhà thơ khi xưa viết để bày tỏ lòng mình là chính thôi, đã chắc gì cụ giặt thật. Lại còn lấy việc giặt áo với lý do để báo đền cái nghĩa tình sâu nặng bấy lâu vợ dành cho chồng ư? Có tương xứng đươc chăng? Thế thì một chút xót thương vợ, tự trách mình mà khóc cũng mới là cái tâm thật lòng, là sự phải đạo công bằng của trời đất thôi.
Cụ Tú Xương ngày trước cũng vậy. Hiểu rõ sự hy sinh vất vả của vợ, cụ thốt lên thương xót: “Quanh năm buôn bán ở mom sông, nuôi đủ năm con với một chồng”. Thôi thì chồng gì mà cũng chẳng khác một đứa con ăn bám vợ vậy. Rồi cụ lại than trách mình, trách thói đời “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc. Có chồng hờ hững cũng như không”. Thậm chí còn muốn đặt vợ lên cao mà thờ nữa.
Thế rồi bà Tú cũng mệt mỏi quá tới mức có lần dọa tự tử. Thương xót vợ, cụ Tú làm văn tế sống vợ để lấy cớ chuộc lỗi, bảo rằng, thà cụ bà chết quách đi còn đỡ khổ hơn sống với người chồng vô tích sự như ông:
“Thôi thôi
Chết quách yên mồ
Sống càng nặng nợ
Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay
Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡ
Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ
Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ”
Đọc lại mới thấy các cụ ta xưa nặng tình nặng nghĩa vợ chồng thế nào. Đến cả những ông vua có tới hàng trăm phi tần, cung nữ mà vợ chết cũng đã khóc ròng thê thảm.
Khi bà Trần Phi mất, vua Mạc Thái Tông buồn rầu, tự tay viết văn tế để khắc vào bia đá với những lời lẽ thật bi ai thống thiết: “May sao mà ta gặp được hiền phi, ban đầu mới là phi tần mà đã thấy ngay đức đoan trang, vào nhã nhặn, ra lễ phép, tôn trọng điều răn dạy trong lễ giáo. Vậy mà phải chịu mệnh trời. Ta thần thái buồn phiền, có mơ về cảnh tiên mới có thể gặp lại được nàng. Bây giờ trên cõi trần này, làm sao mà gặp nhau đây…”
Ông vua Tự Đức vốn sống đầy khuôn phép mà khi vợ là nàng Bằng Phi mất cũng đã phải buồn bã thốt lên trong thơ rằng
“Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại, để dành hơi”
Tức là muốn làm sao giữ mãi hình ảnh của cố nhân, đập gương đi để tìm thấy bóng vợ trong đó, xếp lại xiêm y của những ngày xưa để mong lưu giữ được hơi ấm của nàng…Ôi sao tình cảm vợ chồng ngày xưa gắn bó đến vậy.
Thế mới biết quyền lực đến tột cùng, tiền bạc nứt đố đổ vách mà đôi khi cũng thật bất hạnh. Nhiều lúc muốn đánh đổi tất cả để lấy chút ít hơi ấm vợ chồng mà vẫn thật nhỏ nhoi chẳng bao giờ tìm thấy.
Có một lần, đi tầu điện ngầm ở Paris, thấy mấy anh đàn ông ăn mặc lịch sự cứ đứng lên ngồi xuống mãi để nhường chỗ cho các chị phụ nữ, tôi ghé tai cảm phục mà bảo anh bạn người Pháp đi cùng rằng người Phương Tây quả là văn minh, họ tôn trọng phụ nữ quá. Anh ta mỉm cười và bảo nhỏ tôi: “Đừng nhìn bề ngoài thế bạn ạ”.
Tôi đâm ra hoang mang, có lần đem chuyện này hỏi một nhà nghiên cứu nữ quyền. Chị ấy trả lời rằng, xét các chuẩn mực Phương Tây về văn minh thì đúng là tốt đấy, nhưng xét về quan hệ tình cảm vợ chồng trong thực tế thì họ cũng chẳng hơn gì các bạn Phương Đông Nho giáo đâu. Nào là tình trong tình ngoài, lang chạ lung tung, nghĩa vợ tình chồng nhiều lúc cũng nhạt lắm.
Tôi chợt nhớ đến những dãy phố đền đỏ, những cô gái ăn mặc lỏng lẻo ngồi bên trong các quầy kính ấm áp mơ màng và buồn bã nhìn ra bên ngoài tuyết rơi quạnh quẽ mà chờ đợi…Tôi thấy thoáng đâu đấy trong đầu xuất hiện một khái niệm mà nhiều người đàn ông ngày nay hay nói về cái gọi là “bóc bánh trả tiền”. Ồ, hóa ra trong xã hội được gọi là văn minh người ta có thể dùng tiền bạc thay thế cho tình cảm. Có lẽ cánh đàn ông dùng khái niệm “bóc bánh trả tiền” để xóa bỏ những day dứt của lương tâm khi nghĩ về vợ con, gia đình. Họ vẫn tôn trọng vợ, yêu thương vợ, có đủ lương mang về, vẫn có hoa cho ngày phụ nữ với nụ hôn và sự ve vuốt… Chẳng có gì làm tổn thương gia đình cả.
Liệu có phải ở phương Tây, người ta có xu hướng lo về kinh tế, lo kiếm tiền có khi còn nhiều hơn lo về giữ gìn tình cảm gia đình? Có lẽ con người sống nhiều về lý chí thường vẫn vậy chăng?... Tôi lại nghĩ đến những cuộc tranh luận vô tận của giới sinh học thế kỷ XIX về đâu là sự khác nhau giữa con người với con thú. Ban đầu thì người ta quan tâm tới sự khác biệt về bộ lông lá trên cơ thể, sau đó thì giữa cái mồm người và cái mõm thú, rồi đến cái đuôi với cái xương cụt. Cuối cùng thì người ta quan tâm tới quan điểm của ông Friedrich Hegel khi ông cho rằng con người khác con vật là ở tư tưởng và con tim. Con người sẽ gần hơn con thú nếu họ coi thường lý tính và tâm tính cùng với sự xem nhẹ những xúc cảm nhân văn…

Thế rồi hình ảnh một chú gà trống bỗng hiện lên. Chú ta cục tác mấy cái, bới đi bới lại mấy cọng rác, hạt bụi, hăm hở mời gọi lũ gà mái, rồi bỗng vít đầu rồi đè xấp mặt một con xuống. Thế là xong, chú ta hả hê đi quanh đàn gà, đập cánh gáy một tiếng dài khoe khoang chiến tích. Lũ gà con thì hoảng loạn chẳng hiểu biết gì về sự oai hùng đáng tự hào kia cả…
Chuyện tình cảm trong thời thị trường hàng hóa cũng thật kỳ lạ. Mỗi người xét về vị trí, vai trò, chức năng xã hội đều dường như luôn còn có một thước đo riêng biệt, phi chính thức khác, cũng có cao, có thấp mà gắn theo nó là những giá trị riêng, trong đó, các mối quan hệ, giao tiếp và ứng xử xã hội cũng thật tự nhiên kiểu luật đời, chẳng chịu sự ràng buộc theo văn bản pháp lý chính thức nào, mà đúng như phân tích của Mác, kinh tế hàng hóa là quan hệ mà tiền có trao thì cháo mới múc, là“mối quan hệ trả tiền ngay không tình không nghĩa”.
Cái giá trị của thị trường, hàng hóa cũng tấn công vào các mối quan hệ hôn nhân, gia đình. Không khí nhộn nhịp chợ búa, mua đi bán lại cũng xuất hiện ngay cả bên cạnh các bếp lửa mà trước đây có thể chỉ là “ruột bầu râu tôm”, nhưng lại là sự nồng nàn, ấm cúng. Mỗi người, ngoài cái giá của mình ở xã hội thì cũng còn hình thành cái giá riêng phi chính thức trong gia đình. Quan hệ kinh tế hàng hóa, thị trường tồn tại lúc công khai, khi âm thầm cũng có thể làm đảo lộn các chuẩn mực của văn hóa gia đình truyền thống. Tình yêu, hôn nhân, các mối quan hệ truyền thống ông bà, cha con, vợ chồng, anh chị em… dựa trên tình yêu thương đằm thắm sao nó cứ như nhạt đi. Nó cứ lẫn vào những tính toán của những sổ vàng sổ đỏ, những tường nhà, mét đất, con bò, con lợn, thậm chí đến cả củ khoai, củ sắn…
Cứ thế, rồi ngày nay, hình ảnh các chú gà trống oai phong, rất đỗi tự hào kia cũng xuất hiện không chỉ xung quanh các quan hệ cộng đồng xã hội mà còn cả trong quan hệ gia đình, tình yêu, hôn nhân, vợ chồng, trong bình đẳng giới… Cũng vẫn là những tiếng cục tác, những hạt bụi, cọng rơm, cái vít đầu, đè xấp, đè ngửa nhưng dưới dạng những sản vật văn minh lầu son gác tía, nhà Tây, cơm Tầu, xe mui trần cuốn nhanh như bão lốc… Thế rồi cũng là sự hả hê, tự mãn, khoe khoang chiến tích, nào là có thể đem mọi loại hoa hồng, hoa lan, hoa cúc đẹp đẽ đi luộc ăn, chấm mắm ớt như rau muống vậy… rồi lại còn cả quay phim, chụp ảnh cho vào mạng để lũ hoa kia tàn rũ đời luôn.
Cứ suy ngẫm cái sự phân tích của ông giáo sư triết học, mỹ học Friedrich Hegel người Đức lại thấy đau tê tái thế nào ấy. Đã là thế kỷ XXI rồi, chúng ta rõ ràng không giống con gà, lại càng không phải là con gà, vậy mà sao lại có thể cứ đem con gà ra làm khuôn mẫu để mà hãnh diện sống theo thế nhỉ.
Viết đến đây tôi lại cảm thấy xúc động lạ thường khi hình dung ra nụ cười dung dị mà đầm ấm của cụ ông, cụ bà Tú Mỡ cái ngày Tám tháng Ba xa xưa ấy. Chỉ là tấm áo giặt cho nhau thôi. Rồi bỗng lại tự thấy mình thật vô duyên khi nảy sinh chút thương hại cho mấy ông “người gà trống”, không hiểu rằng sức mạnh “vùi hoa dập liễu” của các ông có thể mang đến một tình thương yêu đích thực cho họ không.
Ngày 8 tháng 3 ập đến rồi, biết tìm cái gì để thay thế cho cái áo cũ để mà giặt bây giờ. Tìm một biểu tượng thực sự để bầy tỏ tấm lòng yêu thương sao giờ khó đến thế.