Giải pháp phát triển con người và văn hóa vùng ven biển và hải đảo
Tác giả bài viết: Đặng Vũ Cảnh Linh
Thứ ba - 06/12/2022 04:58
Sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh đang đòi hỏi các vùng biển và hải đảo phải có những bước phát triển mạnh mẽ và vững chắc. Thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, chúng ta đang hướng tới việc thực hiện mục tiêu “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển”[1]. Để phát triển mạnh mẽ các vùng biển, đảo theo mục tiêu trên, nguồn lực con người và văn hóa có vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Cư dân ven biển và hải đảo là chủ thể của chính sự vận động và phát triển của vùng này. Việc nâng cao chất lượng nguồn lực con người vùng biển gắn liền với phát triển văn hóa là cơ sở để vùng ven biển và hải đảo ở nước ta phát triển mạnh mẽ và bền vững. Dưới đây chúng tôi xin phép được nêu lên một số quan điểm, định hướng và giải pháp phát triển con người và văn hóa vùng ven biển, hải đảo hiện nay.
1. Quan điểm định hướng phát triển con người và văn hóa vùng ven biển và hải đảo 1.1. Cần thống nhất quan điểm, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí vai trò của của các vùng ven biển, hải đảo đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại, biển đã có một trí vai trò quan trọng đặc biệt, vừa là nguồn tài nguyên vô tận giúp cho cuộc sống sinh tồn của con người, vừa là nguồn cảm hứng cho sự hình thành, sáng tạo và phát triển nhiều giá trị văn hóa. Biển là một phần của lịch sử văn minh nhân loại. Trong xã hội hiện đại, vị trí và vai trò của biển ngày càng to lớn. Biển chiếm 70% diện tích của bề mặt trái đất. Trên thực tế, hiện nay, đã có nhiều nước trên thế giới đặt biển vào trung tâm của các chiến lươc phát triển, thậm chí nhiều nước còn tồn tại và phát triển phụ thuộc gần như hoàn toàn vào biển. Nước ta là một trong những nước có tiềm năng về biển hàng đầu thế giới nhưng lại là một trong những nước có biển chưa tận dụng, khai thác và phát triển được những tiềm năng này, đặc biệt xem xét trên phương diện con người và văn hóa. Bởi vậy hướng về biển, vươn tầm nhìn ra ngoài khơi xa, xây dựng những chiến lược mạnh mẽ nhằm khai thác biển để phát triển đất nước đang là một hướng đột phá, đưa sự phát triển của đất nước lên tầm cao mới. Những nghiên cứu về văn hóa biển của người Việt đã cho thấy những hạn chế nhất định của người Việt trong văn hóa biển, nhận thức và hành động về biển. Điều đó đã khiến cho chúng ta không khai thác được hết sức mạnh của biển cho sự phát triển. Trong suốt chiều dài của lịch sử đất nước, chúng ta vẫn chỉ là những người nông dân nghèo làm ruộng ở bên cạnh một nguồn tài nguyên biển vô cùng dữ dội và hào phóng. Bước vào xã hội hiện đại, để có thể trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, phát huy được mọi tiềm năng của biển, chúng ta cần phải thống nhất được những quan điểm chung, nhận thức, đánh giá về biển đúng đắn, nhằm phát huy được sức mạnh của toàn thể dân tộc cho việc định hướng phát triển biển. Cần phải nâng cao nhận thức của mỗi người dân về biển, tạo ra những chuyển biến mới trong văn hóa biển, hướng về biển một cách tích cực và chủ động hơn. Khắc phục những hạn chế trong nhận thức và tư duy về biển trong truyền thống, chúng ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa những nghiên cứu, điều tra cơ bản về biển để hiểu biết sâu sắc hơn về nó, ứng xử với nó một cách khoa học, văn hóa và có hiệu quả hơn. Cần phải nắm được một cách vững chắc những đặc điểm của biển và hải đảo ở nước ta, sức mạnh về các nguồn tài nguyên nước, thổ nhưỡng, địa chất khoáng sản, đánh giá chính xác các nguồn lợi hải sản, những nguồn lực về con người và văn hóa để có một chiến lược phát triển biển đúng đắn, nhằm tạo dựng niềm tin, sự đồng thuận và thống nhất chung của các tầng lớp nhân dân trong viêc thực hiện chiến lược này. Cần phải xây dựng một cơ chế điều hành hợp lý, khoa học, phát huy mọi nguồn lực của đất nước nói chung và của các vùng biển và hải đảo nói riêng cho viêc thực hiện một tầm nhìn mới về phát triển biển, trên cơ sở đó tạo dựng một tâm thế mới cho sự phát triển đất nước.. 1.2. Phát triển mạnh kinh tế vùng ven biển hải đảo làm nền tảng vật chất cho sự phát triển văn hóa, con người Chúng ta không thể phát triển nguồn lực con người và văn hóa nếu không xây dựng được một nền tảng vật chất vững chắc cho sự phát triển này. Bởi vậy, cần phải đẩy mạnh các hoạt động khai thác, sử dụng biển phục vụ cho sự phát triển chung trong đó có phát triển con người và văn hóa. Hiện nay tất cả các nước có biển đều đã xây dựng những tầm nhìn mới về việc khai thác tài nguyên kinh tế của biển. Tranh chấp về biển trở thành những điểm nóng trong các cuộc tranh chấp quốc tế. Xung quanh nguồn tài nguyên biển, người ta thấy xuất hiện hàng loạt các lĩnh vực kinh tế giàu tiềm năng, được tập trung chú ý như vận tải hàng hải, đánh bắt thủy sản, khai thác dần khí, phát triển công nghiệp đóng tàu, du lịch biển đảo... Kinh tế biển có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển bền vững của các quốc gia có biển. Trong lịch sử, ngoại trừ một số trung tâm đô thị và hải cảng, nhìn chung nhiều vùng biển ở nước ta đã chưa có điều kiện phát triển, thậm chí nhiều vùng còn lạc hậu trì trệ, bị coi là những vùng sâu, vùng xa. Cơ sở vật chất nghèo nàn, giao thông đi lại khó khăn, chưa khai thác được những tiềm năng kinh tế của địa phương. Đời sống của nhân dân còn thiếu thốn, văn hóa giáo dục chưa phát triển. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải tập trung hơn nữa mọi nguồn lực cho việc xây dựng và phát triển vùng biển và hải đảo, biến các vùng này trở thành một khu vực trù phú, thịnh vượng. Để phát triển kinh tế ở khu vực này chúng ta cần phải đầu tư mạnh mẽ và toàn diện hơn cả về các nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ và nguồn lực trí tuệ. Phải tiếp tục chủ trương mở cửa và hợp tác quốc tế về biển để giúp nước ta khai thác hiệu quả và bền vững các tiềm năng kinh tế vốn có từ biển, trở thành một quốc gia giàu mạnh từ kinh tế biển. Chúng ta phải phát triển mạnh cả khai thác, chế biến sản phẩm từ biển và phát triển các ngành dịch vụ biển, biến vùng biển trở thành một khu vực khát triển kinh tế mạnh mẽ của cả nước. Chúng ta cũng cần phải xây dựng một số khu vực kinh tế lớn, trọng điểm ở ven biển, phát triển mạnh một số tập đoàn kinh tế , một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ làm động lực cho sự phát triển chung cho cả vùng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể cải thiện được đời sống nhân dân vùng biển và ven biển "Chỉ số phát triển con người (HDI) của các tỉnh, thành phố ven biển cao hơn mức trung bình của cả nước; thu nhập bình quân đầu người của các tỉnh, thành phố ven biển gấp từ 1,2 lần trở lên so với thu nhập bình quân của cả nước. Các đảo có người dân sinh sống có hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đầy đủ, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục...",như chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030 đã vạch rõ. Về phương diện này, phát triển kinh tế biển là cơ sở vật chất cho phát triển con người và văn hóa biển và ngược lại sự phát triển văn hóa và con người lại trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế biển cũng như phát triển toàn diện vùng biển. Đây chính là phép biện chứng của sự phát triển các vùng ven biển hải đảo. 1.3. Đẩy mạnh phát triển nguồn lực con người, đáp ứng nhu cầu phát triển của cư dân và văn hóa vùng ven biển hải đảo Công cuộc xây dựng và phát triển vùng biển và hải đảo gắn liền với việc phát triển nguồn nhân lực tại các vùng này. Chúng ta đều biết, nguồn lực về con người (human resources) từ lâu đã được coi như là một thứ tài nguyên, một vốn quý, một giá trị đối với sự phát triển. Điều này cũng là hoàn toàn đúng đối với các vùng ven biển và hải đảo. Cần phải hiểu rằng, bản thân khái niệm con người đã không hoàn toàn đồng nghĩa với khái niệm nguồn lực con người. Tức là, con người chỉ có nghĩa là nguồn lực trong trường hợp nó mang ý nghĩa của một động lực, một sức mạnh đối với sự phát triển và sáng tạo. Bởi vậy đầu tư cho con người chính là tạo ra cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững và cường thịnh của mỗi quốc gia, mỗi khu vực.Trong thời đại ngày nay, các quốc gia trên thế giới đều hết sức coi trọng vai trò của nguồn nhân lực, quan tâm phát triển nguồn nhân lực, coi nguồn nhân lực như là một trong những nhân tố được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển quốc gia. Việc định hướng phát triển nguồn lực con người tại các vùng văn hóa, cư dân ven biển cũng như vậy. Về phương diện này, chúng ta cần phải đề cao vị thế và vai trò của con người trong việc phát triển tại các vùng ven biển, hải đảo, nâng cao mọi khả năng của con người với tư cách là nguồn nhân lực, từ nhận thức đến tư duy, từ sự năng động sáng tạo trong hoạt động lao động sản xuất đến sự trong sáng lành mạnh trong đạo đức nhân cách, cần phải tạo cho con người có đủ các phẩm chất cần thiết để có thể đáp ứng được những đòi hỏi cần thiết của sự phát triển. Nói một cách cụ thể là phải làm mọi cái để hoạt động của mỗi người trong xã hội trở thành một lực đẩy góp vào động lực phát triển chung. Con người cá nhân thuần tuý trở thành con người với tư cách là một nguồn nhân lực của xã hội. Với tinh thần trên, để phát triển một nguồn nhân lực mới, có tiềm năng và sức mạnh phát triển các vùng ven biển, hải đảo, chúng ta phải có được các chính sách, cơ chế và giải pháp nhằm xây dựng và tạo ra được những thế hệ mới, sống, lao động, học tập, sinh hoạt phù hợp với sự phát triển của cả vùng trên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Theo tổ chức phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), có rất nhiều nhân tố cần phải được nhấn mạnh để phát triển nguồn lực con người cho phát triển, trong đó nổi bật lên những mặt sau đây: 1. Tăng cường các hoạt động giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực 2. Chăm lo tới sự phát triển về thể chất, dinh dưỡng và sức khoẻ 3. Đảm bảo một môi trường sống tốt đẹp, trong sạch cho con người gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội 4. Nâng cao không ngừng mọi khả năng của con người trong nhận thức, tư duy và hành động. Giải phóng mọi sự trói buộc khả năng sáng tạo của con người. Các nhân tố nói trên có quan hệ tương tác gắn bó lẫn nhau. Việc quan tâm tới con người, chăm lo phát triển nguồn lực con người sẽ tạo ra những động lực cho sự hoạt động sáng tạo của xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội đồng thời ngược lại, chính sự phát triển của xã hội lại tạo ra những nền tảng vật chất và tinh thần để chăm lo tới con người, nâng cao mọi khả năng sáng tạo của con người Nói tới nguồn lực con người, với tư cách là khách thể của sự khai thác và đầu tư, người ta thường nói tới mặt số lượng và mặt chất lượng của nó. Số lượng nguồn lực con người chính là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực lượng lao động cho sự phát triển kinh tế xã hội. Các chỉ số về số lượng của nguồn lực con người của một quốc gia và một khu vực là dân số, tốc độ tăng trưởng dân số, tuổi thọ bình quân cấu trúc của dân số: số dân ở độ tuổi lao động, số người ăn theo... Số lượng nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của cả một vùng. Nếu số lượng nguồn lực con người không tương ứng với nhu cầu thực tiễn của sự phát triển (hoặc thừa hoặc thiếu), nó có thể gây nên những xáo trộn không nhỏ đối với các chương trình phát triển kinh tế xã hội. Nạn thiếu việc làm chẳng hạn, có thể gây nhiều hậu quả cho xã hội và là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng phạm tội trong xã hội. Nhưng yếu tố quan trọng nhất trong nguồn lực con người được thể hiện không phải ở số lượng mà ở chất lượng. Đây mới là yếu tố quyết định đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, cũng như đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chất lượng nguồn lực biểu hiện ở hàm lượng trí tuệ ,trong đó phải kể tới những người lao động có học vấn và kiến thức, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại. Sở dĩ người ta nói đến tính vô tận, tính không bị cạn kiệt, tính khai thác không bao giờ hết của nguồn lực con người chính là nói tới yếu tố trí tuệ. Trí tuệ của con người ngày càng phát triển và có tác động mạnh mẽ nhất đối với sự tiến bộ và phát triển xã hội. Với tinh thần trên, văn hóa giáo dục đã có một vị trí và vai trò đặc biệt trong phát triển nguồn lực con người. Nguồn lực con người hiện nay ở các vùng biển và hải đảo chưa đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách của sự phát triển của chính vùng này cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng. Cư dân vùng biển ngày càng đông đảo nhưng tiềm năng về nhận thức, học vấn và kỹ thuật còn rất nhiều hạn chế, lại phân hóa theo các khu vực và các nhóm nghề nghiệp đặc thù. Bởi vậy, bên cạnh các yếu tố về kinh tế, nếu không có sự đầu tư mạnh mẽ về văn hóa, giáo dục, đào tạo theo từng định hướng cụ thể với các nhóm xã hội (như nhóm làm ngư nghiệp, nhóm làm công nhân đóng tầu, nhóm làm kinh doanh dịch vụ..), chúng ta sẽ không có được nguồn động lực cần thiết cho việc thực hiện các mục tiêu chiến lược về biển, vùng biển và hải đảo. 1.4. Kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, khắc phục những hạn chế trong văn hóa biển của người Việt, hướng tới sự phát triển Với hàng nghìn năm sinh tồn trong một vùng sinh thái đặc biệt gắn liền với rừng và biển, người Việt đã xây dựng nên một hệ thống những quan điểm, chuẩn mực và giá trị về văn hóa biển. Văn hóa biển của người Việt chứa đầy những mặt ưu điểm, tich cực và những hạn chế như đã được phân tích ở phần trên. Để hướng tới thực hiện chiến lược biển chúng ta cũng cần phải nghiên cứu những di sản văn hóa biển nói trên, gạn đục khơi trong, kế thừa những mặt tích cực, khắc phục những mặt tiêu cực, nâng tầm văn hóa biển lên một bước phát triển mới, phù hợp với bối cảnh của công nghệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước. Việc phát triển văn hoá xã hội và nâng cao những giá trị truyền thống đặc thù và bản sắc của cư dân vùng ven biển và hải đảo cần phải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng và duy trì sự thống nhất trong những giá trị truyền thống chung của dân tộc Việt Nam. Nó cần phải được tiến hành theo xu hướng : sự phát triển của văn hoá Việt Nam chung là định hướng cho việc duy trì bản sắc văn hoá riêng của các vùng cư dân biển và ngược lại, sự duy trì và nâng cao bản sắc văn hoá riêng của các vùng cư dân biển lại làm phong phú cho sự phát triển văn hoá chung. Đảm bảo dân chủ, công khai, trong việc quyết định và xử lý những vấn đề văn hóa xã hội quan trọng có liên quan đến các vùng cư dân ven biển, tạo điều kiện để cư dân các vùng nói trên, đặc biệt là thế hệ trẻ góp tiếng nói của mình vào những hoạt động phát triển kinh tế, văn hoá xã hội chung. Cần phải phân tích sâu sắc những biểu hiện của văn hóa biển trong cuộc sống hàng ngày, xem xét, đánh giá những quy chuẩn trong lao động, sinh hoạt, quan hệ xã hội, phong tục tập quán ...ở vùng biển, hải đảo trên một tinh thần mới. Phê phán và khắc phục những thói hư tật xấu, những quan niệm và lối sống gắn liền với xã hội tiểu nông của vùng ven biển, xây dựng những giá trị văn hóa mới phù hợp với phong cách công nghiệp tiến bộ và hiện đại. Những điều tra của đề tài cho thấy, tại nhiều vùng biển nước ta, đời sống văn hóa của cư dân còn hết sức nghèo nàn, thói quen ăn ở, nếp sống sinh hoạt còn nhiều lạc hậu, thậm chí phụ thuộc vào tự nhiên, môi trường. Xây dựng những chuẩn mực và giá trị văn hóa mới trên cơ sở kế thừa những mặt tốt đẹp, khắc phục những hạn chế của truyền thống, tiếp thu những giá trị văn hóa mới gắn liền với môi trường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không chỉ là một đòi hỏi cấp bách mà còn là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển của các vùng ven biển, hải đảo.
2. Các giải pháp phát triển con người và văn hóa vùng ven biển và hải đảo. Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã khẳng định những định hướng mới cho việc phát triển đất nước, tận dụng và khai thác mọi tiềm năng của biển cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Phấn đấu để“Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương”[2]. Tuy nhiên từ những định hướng chiến lược đến những hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn, chúng ta còn cần rất nhiều việc phải làm. Cần phải cụ thể hóa những quan điểm định hướng chiến lược thành những chính sách và cơ chế hoạt động cụ thể, biến những quan điểm chung thành những giải pháp khả thi, có hiệu quả thực tiễn cao. Dưới góc độ phát triển cư dân, văn hóa vùng ven biển, hải đảo, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp cụ thể sau đây : 2.1 Các giải pháp về chính sách. Trên cơ sở của những định hướng chiến lược phát triển biển và vùng biển, chúng ta cần phải rà soát, đánh giá lại toàn bộ những chính sách hiện hành về phát triển kinh tế, xã hội, con người và văn hóa vùng ven biển hải đảo, nhằm củng cố và hoàn thiện những chính sách trên cho phù hợp với tình hình mới. Chúng ta cần phải nghiên cứu, điều tra cơ bản về vùng biển để triển khai công tác quy hoạch các vùng nói trên theo một tầm nhìn mói, trên cơ sở đó xây dựng và hoàn thiện các chính sách đồng bộ phát triển kinh tế xã hội ven biển và hải đảo làm cơ sở cho những định hướng phát triển văn hóa, con người. Sớm ban hành những chính sách cụ thể, trực tiếp đến việc thu hút đầu tư, phát triển kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biển, hải đảo. Cần phải có các chính sách đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông bắc-nam ven biển, gắn liền với việc phát triển mạnh các ngành dịch vụ. Hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh, gắn với việc xây dựng các trung tâm kinh tế để ra biển, làm động lực thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước. Cần phải tăng cường những chính sách hướng trực tiếp vào việc phát triển nguồn lực con người tại các vùng ven biển hải đảo theo những định hướng và chỉ tiêu phát triển cụ thể của từng vùng miền. Trên cơ sở quy hoạch từng ngành, từng lĩnh vực thuộc kinh tế và văn hóa biển, phát triển mạnh đội ngũ những cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ quản lý, các chuyên gia và đội ngũ lao động được đào tạo chuyên sâu về các nghề có liên quan đến biển như hàng hải, khai thác và chế biến dầu khí, đánh bắt và nuôi trồng hải sản, du lịch biển, nghiên cứu khoa học về biển... Cần phải có chính sách ưu tiên đào tạo nhân lực cho vùng biển, kết hợp nhiều hình thức đào tạo năng động, đào tạo gắn liền với cơ chế cử tuyển, xây dựng các chính sách đặc biệt nhằm khuyến khích cán bộ khoa học, cán bộ quản lý, các chuyên gia và công nhân kỹ thuật ra công tác tại các vùng biển, hải đảo. Tăng cường những chính sách phát triển văn hóa, giáo dục tại các vùng biển, đảo. Đầu tư mạnh mẽ cho việc phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khuyến khích việc mở thêm các trường đại học, cao đẳng kỹ thuật và các trường nghề có liên quan đến biển. Có chính sách tăng cường phát triển các cơ sở văn hóa, truyền thông, mở rộng mạng lưới báo chí, phát thanh, truyền hình. Gắn kết việc phát triển kinh tế, tổ chức lại sản xuất với việc quy hoạch lại các khu dân cư, xây dựng các cụm dân cư văn hóa, gia đình văn hóa, nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần của cư dân ven biển, hải đảo. Khuyến khích các tổ chức nhà nước, đoàn thể chính trị, các tổ chức phi chính phủ tham gia vào việc mở rộng mạng lưới văn hóa xã hội, nâng cao đời sống văn hóa của cư dân ven biển hải đảo. Cần phải lồng ghép các chủ trương chính sách về phát triển vùng ven biển hải đảo của nhà nước vào những chính sách cụ thể khác. Đưa những nội dung về phát triển biển, hải đảo vào những chính sách về ngoại giao, an ninh quốc phòng, chính sách đầu tư phát triển kinh tế, chính sách về lao động, tiền lương... Chú ý những nội dung về phát triển biển vào việc xây dựng các chính sách chiến lược ở tầm vĩ mô, tạo ra một tầm nhìn mới về biển trong hệ thống các chính sách chung. Xây dựng chiến lược phát triển biển cụ thể đối với mỗi địa phương, khu vực có biển và ven biển, lồng ghép những nội dung phát triển biển, văn hóa cư dân ven biển vào các hoạt động cụ thể của địa phương. 2.2 Các giải pháp về cơ chế quản lý. Việc thực hiện chiến lược biển đến năm 2030, trong đó có những định hướng phát triển nguồn nhân lực và văn hóa xã hội vùng ven biển, hải đảo, chỉ có thể thành công nếu chúng ta đẩy mạnh các hoạt động quản lý, xây dựng được một cơ chế hoạt động hợp lý, khoa học cho việc thực hiện các mục tiêu chiến lược trên. Chúng ta phải nghiên cứu, rà soát, đánh giá lại các mô hình quản lý kinh tế xã hội vùng biển và hải đảo hiện hành, đề xuất với Nhà nước về một cơ chế quản lý phù hợp với những yêu cầu thực tiễn hiện nay. Rõ ràng là chúng ta cần phải có một cơ quan quản lý tổng hợp, thống nhất, có đủ tiềm năng trong việc quản lý các hoạt động có liên quan đến biển, vùng biển và hải đảo. Cơ quan này sẽ phải có đủ thẩm quyền và được tổ chức chặt chẽ, đủ năng lực trong việc hướng dẫn, quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, giám sat việc thực hiện các quyết định trong quá trình thực hiện chiến lược biển. Cần phải xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật về biển, vùng biển và hải đảo một cách đầy đủ, làm cơ sở không chỉ cho việc xác lập chủ quyền, quyền làm chủ, quản lý và khai thác vùng biển mà còn là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các chiến lược phát triển biển. Đưa các văn bản pháp lý vào thực tiễn hoạt động kinh tế xã hội vùng biển và ven biển Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý, chúng ta cũng phải hoàn thiện một cơ chế đồng bộ nhằm phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong đó có sức mạnh trực tiếp của các vùng biển đảo đối với việc thực hiện chiến lược biển. Phát huy đầy đủ vị trí, chức năng của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể, chính trị xã hội, các tổ chức xã hội,cộng đồng và gia đình vào việc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội văn hóa tại vùng biển, đảo. 2.3 Các giải pháp phát triển nguồn lực con người Mặc dù kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng ven biển trong những năm gần đây đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng trên thực tế những vùng này vẫn còn không ít khó khăn, yếu kém. Hiện nay, một trong những khó khăn yếu kém làm ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng nói trên là nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực trẻ. Theo báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương, ngoài trừ một số vùng đô thị, cảng biển, nhìn chung sự phát triển của nguồn nhân lực ở các vùng ven biển, hải đảo còn khá thấp. Điều đó được thể hiện qua một số vấn đề chính như sau: - Trình độ học vấn, giáo dục và hiểu biết xã hội của cư dân vùng biển đảo còn thấp. Mặc dù từ năm 2010, cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học – xoá mù chữ, nhưng thực tế cho thấy số lượng trẻ em trong độ tuổi đến trường ở nhiều vùng biển còn thấp, đặc biệt là nhóm cư dân sống vạn đò, trên biển. Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học còn cao; tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông còn thấp; số lượng học sinh giảm khá nhiều sau mỗi cấp học; một số môn học như nhạc, hoạ, ngoại ngữ, tin học chưa được phổ biến; cơ sở vật chất, trang thiết bị cho giáo dục ở các vùng này còn nghèo nàn, lạc hậu… Việc tiếp cận thông tin, hiểu biết xã hội và khả năng hoà nhập vào sự tiến bộ chung của đồng bào ven biển, hải đảo còn hạn chế. Mặc dù đã được Đảng và Nhà nước quan tâm nhiều nhưng thực tế, đời sống văn hoá của cư dân nhiều vùng ven biển hải đảo còn hạn chế. Một số hủ tục lạc hậu vẫn còn tồn tại; báo chí, thông tin, phát thanh, truyền hình chưa đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ và thông tin cho đồng bào…Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức, khả năng phát triển của nguồn nhân lực của cư dân vùng này trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở miền núi. Với thực tế trên, sự phát triển nguồn nhân lực ở các vùng biển đảo của nước ta hiện nay, về trước mắt và lâu dài, khó có thể đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế – xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo chiến lược biển. Chính vì vậy, để phát triền nguồn nhân lực các vùng ven biển hải đảo, chúng ta phải có chính sách, cơ chế và giải pháp thích hợp, quan tâm đầy đủ và trực tiếp tới nhóm người sẽ là nguồn nhân lực của tương lai. Nói một cách chính xác chúng ta cần phải có những giải pháp tác động trực tiếp tới nhóm đói tượng đặc thù này. Thứ nhất, chăm sóc về mặt thể chất, tạo cho họ có đủ sức mạnh về tinh thần, sức khoẻ, sự bền bỉ và dẻo dai, sẵn sàng vượt qua được mọi khó khăn, thử thách của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Thứ hai, đào tạo và bồi dưỡng về học vấn và tri thức, nâng cao không ngừng trình độ chuyên môn, tay nghề, khả năng lao động sáng tạo, tạo điều kiện để các cư dân, nhất là thanh thiếu niên các vùng biển đảo có điều kiện học tập và cống hiến mọi khả năng của mình theo từng lĩnh vực, nghề nghiệp. Thứ ba, nâng cao không ngừng nhận thức chính trị, ý thức tư tưởng, lối sống và nhân cách, cảm thụ và sáng tạo văn hóa của cư dân, đặc biệt là thanh thiếu niên vùng biển đảo Tạo dựng cho họ niềm tin vào sự phát triển của đất nước của vùng biển đảo cũng như của chính bản thân. Chính niềm tin này sẽ là động lực để họ phấn đấu, đóng góp cho sự phát triển chung. 2.4. Các giải pháp về phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng sống của cư dân vên biển, hải đảo. Mặc dù trong nhiều năm qua, tình trạng sức khỏe của cư dân vùng biển, đảo đã được cải thiện, nhưng chất lượng vẫn còn thấp. Các chỉ số sức khỏe cơ bản như tỷ lệ chết ở trẻ em, tỷ lệ suy dinh dưỡng, tổng tỷ suất sinh, tỷ suất chết mẹ… còn khá cao. Một số loại bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất và trí tuệ vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi. Do cơ sở vật chất còn nghèo nàn, đội ngũ y bác sỹ còn thiếu và yếu, nên mức độ hưởng thụ từ khám chữa bệnh của cư dân các vùng biển đảo còn hạn chế. Tỷ lệ nghèo đói ở nhiều vùng biển còn cao. Nhiều gia đình nghèo đã không đủ chất dinh dưỡng cần thiết để có thể phát triển tốt sức khỏe và chống chọi được với các loại bệnh tật thông thường Để khắc phục tình trạng này, Chúng ta cần phải xây dựng được những chính sách đặc biệt cho việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng dân số các vùng biển đảo, trong đó cần chú ý nhiều tới đối tượng thanh thiếu niên. Do tình hình phát triển kinh tế - xã hội của vùng biển đảo có những nét đặc thù, gắn liền với những điều kiện về môi trường và sinh thái, nên các chỉ tiêu chăm sóc sức khoẻ cho cư dân các khu vực này có những đặc trưng riêng, khi thực hiện, chúng ta cũng phải tính đến khả năng thực thi cho phù hợp với điều kiện của vùng. Theo chúng tôi các giải pháp chính cần tập trung vào những mặt sau:
Phát triển sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ cho cư dân vùng ven biển hải đảo cần căn cứ trên những yêu cầu của chiến lược phát triển biển và những đặc điểm trong sinh hoat, lao động của cư dân vùng này. Ưu tiên phát triển y tế một số khu vực nghèo, đói, thiếu thốn, các vùng đảo xa, những nhóm cư dân sống trên mặt nước... Phát triển y tế là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển tổng thể kinh tế - xã hội vùng ven biển hải đảo. Đầu tư thỏa đáng để cư dân vùng biển đảo có điều kiện chăm sóc sức khỏe, y tế chính là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển nguồn lực con người các vùng nói trên.
Cần phải bảo đảm việc cung cấp đầy đủ các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ theo quy định chung của cả nước đến được với mọi người dân ở vùng biển, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo. Phải có chính sách ưu tiên miễn giảm kinh phí khám chữa bệnh đối với những vùng có nhiều khó khăn. Mức độ ưu tiên của chính sách phải dựa trên điều kiện thực tế phát triển của mỗi khu vực để xác định cho phù hợp.
Việc chăm sóc sức khoẻ cho cư dân ở vùng ven biển hải đảo cần phải được tiến hành theo quan điểm dự phòng tích cực, chủ động và đi trước một bước. Đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh, rèn luyện thân thể, chủ động phòng chống các tác nhân có hại cho sức khoẻ, đi đôi với việc nâng cao hiệu quả công tác điều trị. Chú trọng giáo dục sức khoẻ, bài trừ tập tục lạc hậu trong khám chữa bệnh. Tập trung mọi nỗ lực làm giảm tỷ lệ mắc các bênh vốn có ở vùng biển kết hợp với việc phòng tránh thiên tai, tăng cường vệ sinh môi trường, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, chết trẻ sơ sinh và chết bà mẹ.
Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền. Y học cổ truyền của cư dân vùng biển đảo là những giá trị văn hoá truyền thống quý báu cần được bảo tồn và phát triển. Cần phải xã hội hoá công tác y tế, huy động nhiều ngành, nhiều cấp cùng tham gia vào chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ. Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, đa dạng hoá các hình thức chăm sóc sức khoẻ, trong đó y tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, phát huy tiềm năng trong nước cùng với mở rộng hợp tác quốc tế.
Ngoài những định hướng chung trên đây, việc chăm sóc sức khoẻ cho thanh thiếu niên với tư cách là nguồn nhân lực cho sự phát triển tương lai của vùng biển đảo còn cần đến những giải pháp cụ thể và riêng biệt hơn. Các giải pháp này có thể được thực hiện cụ thể trên hai lĩnh vực. Lĩnh vực nâng cao không ngừng thể chất ,sức khoẻ và lĩnh vực phòng và chữa bệnh cho thanh thiếu niên. Hai lĩnh vực này gắn bó hữu cơ và chặt chẽ với nhau. Chăm sóc, bồi dưỡng và nâng cao về thể lực là cơ sở quan trọng để phòng và chữa bệnh và ngược lại việc phòng và chữa bệnh kịp thời lại là các biện pháp ứng phó cần thiết để duy trì và nâng cao thể lực và sức khoẻ. Để thực hiện tốt phương châm trên, chúng ta cần phải xây dựng các chương trình kế hoạch chăm sóc sức khoẻ, thường xuyên tổ chức các đợt khám sức khoẻ định kỳ, phát hiện và chữa chạy kịp thời các loại bệnh hiểm nghèo cho cư dân vùng biển đảo. Đẩy mạnh các hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí, giáo dục các kiến thức về vệ sinh, phòng bệnh, giáo dục về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tâm thần, hướng dẫn cách phòng tránh các tệ nạn xã hội, rượu chè, nghiện hút, ma tuý...cho thanh thiếu niên. 2.5. Các giải pháp đẩy mạnh giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực vùng biển đảo Hoạt động giáo dục đào tạo là một trong những hoạt động quan trọng nhất đối với công tác phát triển nguồn nhân lực trong đó có nguồn nhân lực các vùng ven biển, hải đảo. Về phương diện này, chúng tôi cho rằng để phát triển nguồn nhân lực ngoài việc chăm lo cái ăn, cái mặc bằng cách nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh tế, chúng ta cần phải chăm lo đến trí lực, tức là phải chú ý đến việc phát triển giáo dục với tinh thần "Giáo dục là quốc sách hàng đầu".... Phải tăng cường vốn đầu tư cho các trường học, đặc biệt là các trường đại học, cao đẳng, các trường dạy nghề, có chế độ đãi ngộ đối với giáo viên và học sinh nhằm thu hút được cả người dạy và người học cho vùng biển đảo. Cần phải có kế hoạch tạo nguồn cán bộ, mở rộng các loại hình đào tạo, nhằm tăng cường đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế... phục vụ cho sự nghiệp phát triển phát triển kinh tế - xã hội và phát triển giáo dục ở các vùng nói trên. Về những giải pháp cụ thể chúng tôi cho rằng, công tác giáo dục đào tạo phải được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với công tác quy hoạch cán bộ và sắp xếp bố trí sử dụng cán bộ theo ngành nghề và lĩnh vực, trên cơ sở phát triển kinh tế xã hội chung của vùng biển đảo. Chính sách tuyển sinh cần được giải quyết đồng bộ với chính sách đào tạo, đãi ngộ và sử dụng cán bộ. Xây dựng kế hoạch giao chỉ tiêu tuyển sinh phải căn cứ vào quy hoạch cán bộ, căn cứ vào nhu cầu thực tế về cán bộ Bộ giáo dục và đào tạo cũng cần phải quan tâm đặc biêt tới việc thực hiện công tác giáo dục đào tạo tại các vùng ven biển, hải đảo, bố trí kế hoạch tuyển sinh cụ thể và giao chỉ tiêu phù hợp cho các tỉnh, đầu tư hoàn thiện hệ thống giáo dục các cấp tại các vùng này, chú ý tới các tiêu chuẩn phân bổ trường, nghề dựa trên qui hoạch và nhu cầu đào tạo cán bộ của địa phương, có như vậy mới có thể sắp xếp, bố trí số học sinh ra trường trở về địa phương công tác. Cùng với việc rà soát, bổ sung hoàn thiện những chính sách tuyển sinh theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ tại địa phương, đảm bảo chính sách ưu tiên giáo dục đào tạo cho một số ngành mũi nhọn và một số vùng khó khăn. Do điều kiện kinh tế- xã hội nói chung và giáo dục nói riêng ở một số vùng ven biển, hải đảo còn kém phát triển nên việc tạo nguồn cán bộ người địa phương còn gặp nhiều khăn, số lượng cán bộ có hiểu biết sâu sắc về địa phương còn quá ít so với nhu cầu. Về phương diện này, trên cơ sở của chiến lược phát triển biển đến năm 2020, Nhà nước cần xây dựng một kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục cho các vùng ven biển hải đảo, cụ thể hóa những mục tiêu chiến lược thành những hoạt động thực tiễn cụ thể, từng bước thực hiện chiến lược trên. 2.6. Những giải pháp phát triển một không gian văn hóa phù hợp với chiến lược phát triển biển Phát triển nguồn nhân lực cho tương laikhông phải chỉ là những vấn đề vềlao động sáng tạo, những vấn đề của công nghệ và kỹ năng chuyên môn mà còn là những vấn đề của văn hóa. Trong chiến lược phát triển biển đến năm 2020, lĩnh vực văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với những lĩnh vực khác. Điều này cần phải được bổ sung và hoàn thiện hơn. Chúng ta có thể hình dung được người lao động trong tương lai sẽ không chỉ là những cỗ máy vận hành không biết mệt mỏi mà còn phải là những người biết cảm thụ và sáng tạo văn hoá, những người có tâm hồn và tình cảm phong phú, có lối sống lành mạnh, trong sáng. Trường hợp của các cư dân vùng ven biển và hải đảo cũng như vậy. Việc nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, lối sống và nhân cách cho các thế hệ cư dân vùng biển đảo, đặc biệt là thế hệ trẻ trẻ là yếu tố quan trọng để phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá khu vực này. Chúng ta đều biết, người Việt sinh sống trên các vùng sinh thái khác nhau ở Việt Nam đã có một quá trình hình thành, phát triển khác nhau . Do những điều kiện lịch sử và phát triển kinh tế - xã hội đặc thù, tại mỗi địa phương, khu vực, bên cạnh những nét văn hoá chung, người Việt Nam đã tạo dựng nên những sắc thái văn hoá riêng biệt của mình tại địa phương, khu vực đó. Những sắc thái văn hoá ấy đã tồn tại từ thế hệ này sang thế hệ khác làm thành những giá trị truyền thống quý báu, góp vào kho tàng phong phú của nền văn minh Việt Nam, làm nên bản sắc của dân tộc Việt Nam nói chung. Những sắc thái văn hoá riêng cũng làm nên những đặc điểm, cái tinh tuý, cái hồn của mỗi vùng sinh thái, là cái để nhận biết và phân biệt giữa vùng này với vùng khác. Ngôn ngữ và tiếng nói, phong tục và tín ngưỡng, văn nghệ dân gian và kiến trúc dân gian, phục trang và âm nhạc…tất cả đã tạo nên những giá trị nhân văn, duy dưỡng cho biết bao thế hệ lớn lên và trưởng thành. Phát triển nguồn nhân lực và văn hóa của các địa phương, khu vực trong đó có vùng ven biển, hải đảo cũng chính là phát triển những con người tương lai biết sống, cảm thụ và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của các vùng nói trên. Ngay từ Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu rõ chủ trương “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển”. Tiếp đến các kỳ Đại hội sau này, Đảng ta kế thừa các quan điểm, đường lối của các Đại hội trước đó, tiếp tục thể hiện tư tưởng kiên trì, nhất quán về vấn đề bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc"[3]. Chủ trương này cũng là những định hướng cơ bản cho mọi sự phát triển của cư dân các vùng miền khác nhau trong đó có vùng ven biển, hải đảo. Văn hóa vùng biển, hải đảo cần phải được xây dựng trên cơ sở cư dân của mỗi vùng sinh thái phải vừa phát huy được những di sản văn hóa tốt đẹp, những bản sắc văn hoá của khu vực mình mình, vừa tiếp thu văn hoá của khu vực khác khác và góp phần phát triển nền văn hoá chung của cả nước, tạo ra sự phong phú đa dạng trong nền văn minh của các dân tộc Việt nam . Để thực hiện được điều đó, chúng ta phải có các giải pháp nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối với việc giữ gìn những bản sắc tốt đẹp, khắc phục những hạn chế của văn hóa của mỗi vùng sinh thái, phát triển văn hóa đa dạng và phong phú phù hợp với xu hướng phát triển chung của đất nước. Đối với các vùng ven biển, hải đảo, chúng ta phải có ý thức coi trọng, bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng những quy chuẩn văn hóa mới trên cơ sở những định hướng phát triển kinh tế xã hội của vùng này. Cần phải có các giải pháp xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, mở rộng mạng lưới thông tin ở vùng ven biển, hải đảo. Trước mắt, cần tập trung thực hiện mục tiêu nâng cao mức hưởng thụ văn hoá, thông tin ở các vùng này. Thực hiện phát triển văn hóa khu vực ven biển hải đảo, các bộ ngành và địa phương cần phải định ra một số chủ trương, chính sách cụ thể để bảo tồn và phát triển văn hoá nói chung và văn hoá của cư dân các vùng biển đảo nói riêng. Bên cạnh việc nâng cao dân trí, chúng ta cần mở rộng mạng lưới thông tin, truyền thông, tăng cường các hoạt động phát hành báo chí, phát thanh truyền hình, tăng cường các hoạt động xuất bản, phát hành sách, phim, ảnh, chú ý mở rộng những hình thức và phương tiện truyền thông mới như viễn thông, internet, lập các trạm thu phát vệ tinh phục vụ nhu cầu phát triển văn hóa vùng biển đảo. Chúng ta cũng cần phải mạnh dạn đầu tư kinh phí để điều tra, thống kê, sưu tầm, lưu giữ tư liệu, nghiên cứu, giới thiệu được nhiều di sản văn hoá vật chất và tinh thần của cư dân các vùng biển đảo trong toàn quốc, giúp cư dân các vùng khác hiểu biết và cảm thu những di sản văn hóa của vùng biển đảo. Thông qua các tổ chức chính quyền, đoàn thể, cộng đồng, chúng ta cũng cần phải tổ chức nhiều hoạt động, sinh hoạt văn hoá cộng đồng đa dạng theo đơn vị dân cư, làng, xóm và theo dòng họ. Trong thời gian qua, nhiều địa phương vùng biển đảo cũng đã có các hình thức khuyến khích động viên, khen thưởng các cộng đồng, cư dân thôn, xã, làng, những dòng họ, gia đình, những nghệ nhân và những người có đóng góp vào công tác giữ gìn, phát huy văn hoá truyền thống của vùng. Đây là những hình thức tốt cần được nhân rộng và phát huy. Hiện nay, nhiều hình thức hoạt động văn hoá, nghệ thuật ở cấp tỉnh của nhiều vùng biển đảo vẫn được duy trì, mở rộng và phát triển. Nhiều vùng hiện nay còn tổ chức được các đơn vị nghệ thuật riêng, xây dựng nhà hát, câu lạc bộ, nhà văn hóa, thư viên. Hoạt động của các đơn vị này đã thu hút khá đông đảo cư dân ven biển, hải đảo tham gia. Thư viện cấp huyện ở nhiều vùng biển đảo vẫn được duy trì hoạt động, cho dù chưa chưa phát huy được hết tác dụng nhưng vẫn rất cần được đầu tư,cải tiến phương thức hoạt động để đáp ứng nhu cầu học tập nghiên cứu, cảm thụ văn học, nghệ thuật khoa học của nhân dân Trong lĩnh vực văn hoá thông tin, trước mắt, Nhà nước và chính quyền địa phương cần hỗ trợ các tỉnh, các huyện vùng biển đảo kinh phí xây dựng thêm các trạm tiếp sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Trung ương. Các địa phương cũng cần phải lên kế hoạch tăng thêm các buổi phát thanh sóng ngắn, nhất là các buổi truyền thanh, thông tin tại từng làng xã, đồng thời chú trọng cải tiến và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình địa phương cho phù hợp với yêu cầu và truyền thống của cư dân ven biển hải đảo. Cần phải tổ chức sản xuất và bán rộng rãi các loại radio, loa thông dụng, cung ứng đủ pin cho nhân dân các vùng đảo xa. Bản thân trong lĩnh vực truyền hình, một trong những phương tiện truyền thông đại chúng có sức hút và tầm ảnh hưởng quan trọng với người dân hiện nay, cần nghiên cứu một cách nghiêm túc để có thể sớm xây dựng riêng một kênh truyền hình về biển, đáp ứng nhu cầu thông tin và cảm thụ văn hóa của người dân. Nhà nước cũng cần phải tăng kinh phí cho việc khai thác hoạt động văn hoá cổ truyền của cư dân các vùng biển đảo, khôi phục và phát triển các đội văn nghệ nghiệp dư, đội chiếu bóng lưu động, tổ chức tốt các lễ hội văn hóa truyên thống theo tinh thần vừa tiết kiệm vừa hiệu quả, nâng cao khả năng cảm thụ và sáng tạo văn hóa trong các tầng lớp dân cư Các tỉnh ven biển cũng cần cải tiến để nâng cao chất lượng về nội dung và hình thức báo địa phương, bản tin để phục vụ có hiệu quả đến từng địa phương, cơ sở. Các đài địa phương chú trọng việc giới thiệu các cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng về cách làm ăn giỏi, xây dựng làng xóm mới, phong cách lao động, sản xuất và sinh hoạt cộng đồng mới. Sự phát triển phát triển của cư dân và văn hóa vùng ven biển hải đảo chỉ có thể đạt được thành công trên nền tảng cơ bản sự phát triển kinh tế xã họi, văn hoá, sự ổn định chính trị trên toàn bộ khu vực biển đảo. Do đó để thực hiện các giải pháp phát triển văn hóa xã hội vùng ven biển hải đảo, chúng ta phải quan tâm và thực hiện một cách có hiệu quả các giải pháp cơ bản dẫn đến sự phát triển chung cho toàn bộ khu vực. Điều đó liên quan đến việc thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội của toàn bộ các vùng biển đảo. Cụ thể là phát triển mạnh toàn vùng, cả về đời sống vật chất và tinh thần, thay đổi cơ cấu sản xuất theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, xoá đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nâng cao mặt bằng dân trí chung, biến toàn bộ các khu vực biển đảo trở thành một khu vực giàu mạnh và trù phú. Chỉ khi nào chúng ta thực hiện tốt các giải pháp cơ bản này, chúng ta mới có cơ sở để phát triển một cách vững chắc các mảng văn hóa xã hội của toàn vùng.
3. Một số đề xuất và khuyến nghị Để thực hiện tốt những quan điểm và giải pháp mang tính cơ bản trên, chúng ta cần phải xác định những biện pháp đồng bộ sau đây: Thứ nhất: Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá xã hội và con người. Lấy tăng trưởng kinh tế làm cơ sở vật chất và điều kiện cần thiết để giữ vững sự ổn định chính trị, phát triển con người. Phát huy vai trò chủ động của con người trong phát triển trên cơ sở đó nâng cao toàn bộ mặt bằng kinhtế, văn hoá, xã hội chung của khu vực ven biển và hải đảo. Cần phải lấy tăng trưởng để phát triển, tập trung phát triển kinh tế làm cơ sở để phát triển toàn diện các mặt khác, tuân thủ nguyên tắc phát triển đi liền với giảm thiểu rủi ro, tôn trọng các yếu tố đặc thù và phát huy lợi thế về địa lý, tài nguyên và nguồn nhân lực. Thứ hai: Một mặt duy trì chính sách ưu tiên, hỗ trợ giúp đỡ cho các vùng biển đảo về đầu tư, về tài chính và thuế, một mặt khác phải taọ ra một sân chơi thực sự bình đẳng trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên, các nguồn lực và tạo sức cạnh tranh mới. Tạo điều kiện để vùng biển đảo có thể đi tiên phong trong những lĩnh vực mũi nhọn, ưu tiên cho vùng biển hướng ra bên ngoài, khai thác và tận dụng sức mạnh từ bên ngoài cho sự phát triển và trong những trường hợp thuận tiện có thể tiếp tục vượt lên trước trong những lĩnh vực vốn là thế mạnh của miền biển. Nâng cao vai trò của các hoạt động dịch vụ bảo vệ, bảo tồn sinh thái và an ninh quốc phòng vùng biển. Thứ ba: Phát triển văn hoá xã hội trên cơ sở tôn trọng và duy trì sự thống nhất trong những giá trị truyền thống chung của dân tộc Việt Nam. Phát triển và nâng cao những giá trị văn hoá truyền thống đặc thù và bản sắc của vùng biển đảo .Nâng cao vị trí vai trò của văn hóa xã hội đối với sự phát triển chung, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí vai trò của biển, vùng biển và văn hóa vùng biển. Khai thác biển, biến vùng biển đảo trở thành một bàn đạp mới cho sự phát triển đất nước trong đó có phát triển van hóa xã hội. Thứ tư: Nâng cao không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng cư dân ven biển hải đảo dân tộc. Xây dựng và phát triển các cơ sở vật chất và tinh thần cho các hoạt động văn hóa, vui chơi giai trí, văn nghệ thể dục thể thao, du lịch.Thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo, có chính sách điều tiết phân phối thu nhập hợp lý, trợ giúp những gia đình khó khăn , triển khai mạnh mẽ các hoạt động bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo cho đồng bào và thanh thiêu nhi tránh được những sự ruỉ ro bất ngờ trong cuộc sống.
Kiến nghị với Nhà nước :
Để phát triển nguồn nhân lực và văn hóa xã hội vùng ven biển hải đảo, đáp ứng được những đòi hỏi của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, Nhà nước cần phải quan tâm đúng mức hơn tới vấn đề này, từ khâu hoạch định chính sách, đến khâu xác lập cơ chế, phân công trách nhiệm cụ thể và rõ ràng giữa các Ban, ngành, chính quyền, đoàn thể, cộng đồng, gia đình trong việc thực thi các chính sách trên. Nhà nước cần phải xây dựng đồng bộ và hệ thống các chính sách và chương trình hành động cụ thể nhằm thực hiện đúng đắn những mục tiêu chiến lược phát triển biển, đầu tư phát triển kinh tế, thay đổi cơ cấu lao động nghề nghiệp, phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, để trên cơ sở đó xác định được rõ ràng những nhiệm vụ chiến lược cho từng thời kỳ, có bước đi rõ ràng, vững chắc trong việc thực hiện những mục tiêu chiến lược biển nói trên. Cần phải chủ động thực hiện và giám sát việc thực hiện việc lồng ghép các quan điểm về phát triển nguồn nhân lực và văn hóa vào các chính sách phát triển kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô cũng như ở những vùng ven biển, hải đảo. Mở thêm các truờng Đại học, trường dạy nghề tại các vùng này, tạo điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các khu vực biển đảo, thông qua các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, y tế, giáo dục, phân công và sử dụng hợp lý lao động, đưa các vùng biển đảo trở thành một khu vực phát triển mạnh mẽ cả về kinh tế xã hội văn hóa, phát triển và đi tiên phong trong sự phát triển chung của đất nước. Nhà nước cũng cần phải sớm nghiên cứu nhằm xây dựng một cơ quan quản lý nhà nước về phát triển vùng ven biển và hải đảo, với chức năng và nhiệm vụ tương đương với Ủy ban dân tộc và miền núi. Cơ quan này sẽ trực tiếp đóng vai trò quản lý nhà nước các vùng biển đảo, tạo điều kiện xây dựng, hoàn thiện và thống nhất về mặt tổ chức một cơ chế vũng chắc, phát huy mọi nguồn lực của xã hội, chính quyền, đoàn thể, cộng đồng và gia đình cho việc phát triển vùng biển đảo. Phân công trách nhiệm cụ thể đối với các cơ quan, bộ ngành, các tổ chức chính trị xã hội, lồng ghép các hoạt động có liên quan đến chiến lược phát triển biển vào những mục tiêu kế hoạch hoạt động của các cơ quan này.
Kiến nghị với các tổ chức truyền thông, báo chí xuất bản:
Việc xây dựng và phát triển văn hóa của cư dân ven biển, hải đảo có liên quan tới vai trò của truyền thông và hoạt động của các cơ quan truyền thông, báo chí, xuất bản. Bởi vậy chúng ta cần phải tăng cường hơn nữa chất lượng hoạt động của các cơ quan này trong việc tuyên truyền giáo dục các tầng lớp nhân dân, nâng cao nhận thức họ về vị trí vai trò của biển và vùng biển đảo đối với công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước. Về mặt nội dung truyền thông: Các cơ quan truyền thông cần quan tâm đầy đủ và mạnh mẽ hơn tới chủ đề phát triển kinh tế, xã hội, vùng biển và hải đảo, đưa những nội dung tuyên truyền về biển vào những hoạt động truyền thông, giáo dục của các cơ quan này. Cần phải tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ hơn về biển, thay đổi các quan niệm văn hóa về biển, hướng về biển trong mọi tư duy về phát triển. Tiếp tục tuyên truyền sâu rộng hơn về những nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhà nước về biển, đảo, đặc biệt là về Nghị quyết số 36-NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Đẩy mạnh những nội dung tuyên truyền, giới thiệu những mục tiêu phương hướng và thành tựu đã đạt được trong việc phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giữ vững an ninh quốc phòng, trật tự trị an trên vùng biển đảo. Giới thiệu về các dự án đã và đang được triển khai, thu hút sự quan tâm của mọi tầng lớp dân cư tới sự phát triển của các vùng biển đảo. Tuyên truyền, cổ vũ mạnh mẽ, kịp thời các tấm gương điển hình tiên tiến trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội văn hóa vùng biển đảo, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, làm trong sạch môi trường hoạt động kinh tế xã hội vùng biển đảo.
Về mặt hình thức và phương tiện truyền thông : Cần phải đổi mới công tác chỉ đạo, hướng dẫn tuyên truyền, sử dụng lồng ghép nhiều hình thức, biện pháp phối hợp trong tuyên truyền phù hợp và sát thực với điều kiện của các vùng biển, đảo.. Phối hợp giữa truyền thông báo chí với các hình thức tuyên truyền miệng, đẩy mạnh các hoạt động giao lưu, kết nghĩa thăm hỏi giữa các vùng đồng bằng, nông thôn, miền núi với vùng biển đảo.
Nâng cao hiệu quả các phong trào "vì biển đảo quê hương","cả nước vì Trường Sa, Trường Sa vì cả nước", phối hợp tạo điều kiện cho những người công tác ở biển, đảo, những đơn vị hải quân thực hiện các đợt hành quân dã ngoại làm công tác dân vận, phối hợp với Mặt trận tổ quốc các cấp tuyên truyền thực hiện cuộc vận động "toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư". Đẩy mạnh hoạt động của các ngành văn hóa thông tin và các đoàn thể, đặc biệt là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao phục vụ công tác tuyên truyền về biển, đảo.
Củng cố, kiện toàn và phát huy vai trò và tác dụng to lớn của hoạt động báo cáo viên, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác truyền thông về biển đảo. Định kỳ tổ chức các hội nghị báo cáo viên, thường xuyên phổ biến, giới thiệu, cung cấp thông tin về biển ,đảo. Đầu tư mạnh mẽ cho việc mở rộng và phát triển các mạng thông tin đại chúng, khai thác và phát huy được thế mạnh của mỗi loại hình, phương tiên truyền thông, tạo được mạng lưới tuyên truyền rộng khắp, nhiều chiều nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các phương tiện này trong thực tiễn.
Các Hội liên hiệp văn học nghệ thuật, Hội nhà báo, Liên hiệp các hội khoa học, kỹ thuật...cũng cần tổ chức nhiều đợt công tác, nghiên cứu và thâm nhập thực tiễn để sáng tác những tác phẩm có giá trị về đề tài biển đảo, nâng cao nhận thức và tình cảm của các tầng lớp nhân dân trong cả nước về đời sống của cư dân vùng biển đảo, sẵn sàng ủng hộ giúp dỡ cho sự phát triển của vùng này.
Trên cơ sở những mục tiêu và định hướng chiến lược phát triển biển đến năm 2030, phát huy mạnh mẽ vai trò hoạt động của cư dân, nguồn lực lao động và văn hóa vùng ven biển hải đảo theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nhất định chúng ta sẽ có đủ cơ sở khoa học và thực tiễn để đạt được mục tiêu : "Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển".[4]
[1] Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến nă 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
[2] Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
[3]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.244-245
[4] Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến nă 2030, tầm nhìn đến năm 2045.